CƠ SỞ HÀ NỘI Trụ sở chính: P1201-2C tầng 12 Tòa nhà Landmark 72 Keangnam CS1: P.1114, Tòa nhà CT.A 789 Bộ Quốc Phòng, Mỹ Đình CS2: P.601, Tòa C1+C2 Ngõ 106 Lê Trọng Tấn, Thanh Xuân CS3: P.201 tòa N07, Ngõ 49 Trần Đăng Ninh, Cầu Giấy CS4: C.1909 Tòa Hồ Gươm Plaza, Trần Phú, Hà Đông CS5: P.1408 Tầng 14 tòa 27A2 GreenStar 234 Phạm Văn Bé gái 11 tuổi tự sát khi biết kẻ hãm hiếp mình 6 năm liền được tại ngoại, dấy lên làn sóng phẫn nộ khắp nước Úc. nói nhiều và mê Tik Tok". Mẹ của Annaliesse Ugle. Báo Úc là website phi lợi nhuận phục vụ lợi ích cung cấp thông tin cho cộng đồng người Việt ở Úc. Nô lệ tình dục. Buôn người (cho mục đích tình dục) Hiếp dâm, hãm hiếp, cưỡng hiếp, cưỡng bức hay giở trò đồi bại, giở trò cầm thú ( từ hay dùng trong báo chí) là một hình thức tấn công tình dục thường bao gồm quan hệ tình dục hoặc các hình thức xâm nhập tình Thực ra, Trang bị Thành khống chế, ép phải trả lời Đức là "không sao đâu". Từ hơn 2 giờ sáng, gã cứ nằm ôm chặt lấy Trang, sau đó đòi quan hệ tình dục rồi sẽ thả ra nhưng bị cô chối từ. Mặc cho Trang phản ứng, Thành vẫn khống chế hãm hiếp cô. Thày giáo hiếp dâm đời con gái của cô học trò Risa Shimizu, Trời ơi, hóa ra là hai chị em từ lâu đã tưởng tượng về người chị, người em của mình, họ thích làm tình với đối phương, có những ham muốn xác thịt, những suy nghĩ loạn luân, thế mà họ đều cố xua đi, làm trái với suy nghĩ và ham muốn của mình Vay Tiền Trả Góp 24 Tháng. Tên của những tên sát nhân này đã trở thành nỗi kinh hoàng bởi những tội ác chúng phạm phải. Chúng có mặt ở danh sách này không chỉ bởi số lượng nạn nhân, mà còn bởi sự rùng rợn trong hành động sát nhân của chúng. 10. Gilles de Rais Xuất thân là một quý tộc người Pháp, nhưng tội ác của Gilles de Rais đã biến hắn trở thành tiền thân cho những tên sát nhân hàng loạt sau này. Trước khi trở thành tội phạm, hắn phục vụ trong quân đội với tư cách là đội trưởng trong binh đoàn của Joan of Arc. Hắn đã bị tố cáo vì đã hành hạ, hãm hiếp và hạ sát hàng chục, thậm chí là hàng trăm trẻ vị thành niên. Phần lớn trong số này đều là các bé trai. Theo lời kể của những người còn sống sót, những nạn nhân của Rais đều có mái tóc vàng và màu mắt xanh, giống với hình ảnh thời thơ ấu của hắn. Họ đều bị lùa về doanh trại của Rais, tại đây, họ bị hãm hiếp, bị tra tấn và bị tùng xẻo. Sau đó, Rais sẽ tùy ý định tội nạn nhân, dựa vào vẻ mặt đầy khiếp sợ của họ. Con số chính xác vẫn chưa được làm rõ, bởi phần lớn thi thể đều bị chôn hoặc bị thiêu hủy, tuy nhiên, nhiều giả thuyết cho rằng nó nằm giữa 80 và 200, thậm chí có người còn tin rằng Rais đã hạ sát đến 600 nạn nhân. Thông thường tuổi của các nạn nhân là từ 8 đến 14 và bao gồm cả các bé trai và gái. Mặc dù Rais ưa chuộng nam giới hơn, nhưng nếu điều kiện hạn hẹp, hắn cũng chọn cả những bé gái. Henriet, một trong những tay phụ tá đắc lực của Rais, đã mô tả tội ác của hắn và đồng bọn tại tòa. Henriet và một vài người khác sẽ đi bắt bớ những đứa trẻ và dồn chúng vào một căn nhà. Tại đây, nạn nhân bị giết hại dã man theo nhiều cách khác nhau. Rais đặc biệt thích thú việc nhìn cảnh tra tấn, hắn luôn tận hưởng từng khoảnh khắc nạn nhân của mình rên la trong đau đớn. Nhưng hắn còn có một niềm lạc thú lớn hơn, đó là máu. Hắn thường bắt cấp dưới đâm thẳng vào cổ, tại vị trí của các mạch cảnh, sau đó nhìn nạn nhân giãy dụa rồi lịm đi dần dần, khi máu vẫn đang tuôn xối xả. Hiện trường luôn ngập ngụa trong máu. Đáng ghê tởm hơn, sau mỗi hành vi thú tính của mình, Rais luôn có thói quen…cầu nguyện. Chưa ai rõ hắn cầu nguyện điều gì – một suất yên nghỉ dài hạn sâu dưới tận cùng địa ngục với những tội ác rùng rợn mà hắn đã làm? 9. Richard Trenton Chase Richard Trenton Chase 23/5/1950 – 26/12/1980 là một tên sát thủ đã hạ sát 6 người chỉ trong khoảng thời gian 1 tháng tại California. Hắn được đặt biệt danh The Vampire of Sacramento nhờ vào sở thích… ăn thịt và uống máu người của mình. Hành vi này được lý giải do ảo tưởng tin rằng hắn cần ngăn chặn Phát xít biến máu hắn thành một thùng bột, bởi chúng đã đầu độc hắn. Vào ngày 29/12/1977, Chase hạ sát nạn nhân đầu tiên của mình bằng một khẩu súng. Đó là Ambrose Griffin, một kỹ sư 51 tuổi và là cha của 2 đứa trẻ. Nạn nhân tiếp theo của hắn là Teresa Wallin. Là một bà bầu đang ở tháng thứ 3, Teresa đã nhận được một tai họa không thể lường trước, khi Chase chờ sẵn ở nhà cô và hạ gục cô với 3 phát súng. Chase sau đó đã quan hệ với cái xác, xẻo ra thành từng phần và tắm trong máu nạn nhân. Vào ngày 27/1 năm 1988, Chase thực hiện tội ác cuối cùng của mình. Sau khi đột nhập vào nhà Evelyn Miroth, hắn bắt gặp hàng xóm của cô, Don Meredith. Người đàn ông tội nghiệp này đã bị bắn chết bằng một khẩu súng lục .22. Sau đó, Chase lấy luôn ví và chìa khóa xe, đi tiếp vào căn nhà, lần lượt bắn hạ Evelyn Miroth, Jason – đứa con trai 6 tuổi của cô và David – đứa cháu mới được 22 tháng của cô. Cũng như những nạn nhân ở trên, Chase thực hiện sở thích bệnh hoạn của mình trên cái xác, và tắm mình trong máu nạn nhân. Trên đường về nhà, hắn nhâm nhi máu của David và một vài mảnh nội tạng của nạn nhân, trước khi quẳng toàn bộ số xác vào một nhà thờ gần đó. Một nhân chứng ở gần đó đã thấy hắn rời khỏi hiện trường – nơi hắn để lại la liệt dấu vân tay và dấu giầy, bằng chứng không thể hoàn hảo hơn giúp tóm cổ tên tội phạm này. Vào ngày 8/5, Chase đã bị kết tội sát nhân cấp độ 1 và bị xử tử hình bằng khí gas. Trong khi chờ đợi ngày bước ra pháp trường, Chase cùng những tội ác của hắn đã trở thành nỗi khiếp sợ với những ông bạn cùng xà lim. Theo như lời của một sĩ quan trại giam, chúng đã nhiều lần dụ dỗ Chase tự tử. Và vào ngày 26/12/1980, hắn đã thực hiện được điều đó, bằng cách nốc trọn số thuốc chống trầm cảm mà bác sĩ kê đơn, số thuốc mà hắn đã để dành trong suốt nhiều tháng qua. 8. Jeffrey Dahmer Dahmer đã hạ sát ít nhất 17 người vào khoảng thời gian giữa những năm 1978 và 1991, với phần lớn những tội ác được thực hiện vào giữa năm 1989 và 1991. Đại đa số chúng đều cực kỳ đáng kinh tởm với những hành vi ép buộc nạn nhân giao cấu với thú vật, hãm hiếp xác chết, tùng xẻo và ăn thịt người. Tội ác đầu tiên của Dahmer được thự hiện khi hắn mới chỉ 18 tuổi – sát hại Steven Hicks, một người xin quá giang. Dahmer đã mời Hicks đến nhà mình, và giết chết nạn nhân chỉ vì hắn “không muốn anh ta ra đi”. Vào ngày 25/9/1988, Dahmer bị bắt vì tội quấy rối một bé trai 13 tuổi ở Milwaukee, vì tội danh này, hắn phải nhận án lao động khổ sai trong một năm. Sau khi được mãn hạn sớm, gần như hắn ngay lập tức quay trở về chuỗi giết người hàng loạt của mình. Ngày 27/5/1991, Konerak Sinthasomphone, 1 bé trai 14 tuổi đã được tìm thấy trên hè phố, trần như nhộng với thân thể đầy thương tích. Cậu bé đã báo cáo với cảnh sát địa phương về hành vi quấy rối của Dahmer, và dựa vào lời chứng này, họ đã tìm đến nhà Dahmer chỉ nhằm đưa ra 1 vài lời cảnh cáo. Mọi chuyện đều không có gì đặc biệt, ngoại trừ việc họ báo cáo lại một “mùi hôi nồng nặc đến lạ lùng”. Đó chính là mùi thối rữa của một thi thể nằm ở sau nhà Dahmer. Cũng trong đêm đó, cậu bé xấu số Sinthasomphone đã bị hạ sát, xác cậu bé bị xẻ ra làm từng mảnh và chiếc đầu lâu của cậu được giữ lại như một kỷ vật. Vào mùa hè năm 1991, ước tính Dahmer đã hạ sát ít nhất 1 người mỗi tuần. 22/07/1991, Dahmer tiếp tục dụ dỗ Tracy Edwards về nhà mình để tiện bề ra tay. Theo lời kể của người suýt-trở-thành-nạn-nhân, Dahmer đã dùng còng số 8 để trói anh lại. Edwards đã may mắn thoát chết và chạy đến đồn cảnh sát với chiếc còng vẫn lủng lẳng trên tay. Cuộc khám xét sau đó tại căn hộ thực sự là tư liệu không thể thích hợp hơn cho những bộ phim kinh dị Nhiều xác chết được chứa trong các bình bảo quản, một vài chiếc đầu người được tìm thấy trong tủ lạnh và rất nhiều đầu lâu được chứa trong các ngăn tủ quần áo của hắn. Dahmer thậm chí đã cho tiến hành những nghi lễ nhằm mục đích hiện thực hóa ý tưởng Zombie. Tòa án đã kết tội sát nhân đối với Dahmer và xử hắn 937 năm tù giam. Trong phiên tòa điều trần, Dahmer đã bày tỏ sự hối lỗi sâu sắc, đồng thời, hắn tình nguyện nhận lấy án tử hình. Ngày 28/11/1994, Dahmer cuối cùng cũng đã được toại nguyện khi bị tên tù nhân Christopher Scarver đánh đập đến chết tại phòng tập thể hình của nhà giam. Dahmer tử vong bởi chấn thương nghiêm trọng vào vùng đầu mặt, ngay trên đường vận chuyển đến khu cấp cứu của nhà giam. 7. Albert Fish Albert Fish, hay còn được biết đến với những biệt danh Gray Man, Werewolf of Wysteria và Brooklyn Vampire, nổi tiếng với tội danh quấy rối hơn 100 trẻ em, và là nghi phạm trong ít nhất 5 vụ giết người. Ba trong số đó được lần ra bởi cảnh sát, với những bằng chứng không thể chối cãi, 2 vụ còn lại do Fish tự thú nhận. Chi tiết về một trong số những tội ác này được thuật lại bởi chính Fish, trong câu chuyện hắn kể với người mẹ của Billy Gaffney, một trong số những nạn nhân xấu số của hắn. Ghê rợn hơn, Fish còn thú nhận hành vi chế biến các bộ phận của xác chết và biến nó thành bữa ăn khoái khẩu của hắn. Tại tòa án, nhiều bác sỹ tâm thần đã đến để làm chứng cho các rối loạn tình dục của Fish, bao gồm khổ dâm, giao cấu với trẻ em, xác chết… Phim chụp X-Quang của Fish cho thấy hình ảnh một thanh kim loại xiên từ lỗ niệu đạo ngoài tại dương vật, vào đến tận chậu hông bé, chỉ để thỏa mãn nhu cầu tình dục của hắn. 6. Andrei Chikatilo Andrei Chikatilo là một sát thủ người Ukraina lừng danh với các tên gọi “Butcher of Rostov” và “The Red Ripper”. Hắn là hung thủ của 53 vụ giết hại các phụ nữ và trẻ em vào thời điểm từ 1978 đến 1990. Năm 1978, khi mới chuyển đến một vùng mỏ khai thác gần Rostov, vụ giết người đầu tiên của hắn đã được ghi nhận. Ngày 22/12, hắn dụ một bé gái 9 tuổi đến một căn nhà nhỏ, nơi hắn định hãm hiếp cô bé. Khi đã trói chặt cô bé, hắn đã dùng dao đâm liên tiếp vào người nạn nhân. Ghê rợn hơn, hắn đã thủ dâm trong khi thực hiện hành động này, và từ đó trở đi, hắn thú nhận rằng mình chỉ có thể đạt cực khoái khi hạ sát nữ giới. Sau đó, Chikatilo tỏ ra im ắng trong một khoảng thời gian khá dài, trước khi trở lại hoạt động vào tháng7/1983. Nạn nhân phần lớn là các bé gái, trong khi nữ giới trưởng thành thường là gái mại dâm. Việc dụ dỗ họ là khá dễ dàng, với tiền, rượu, kẹo hoặc đồ chơi. Tại thời điểm này, những phi vụ của hắn đều được thực hiện khá trót lọt, bởi báo cáo về những vụ giết người phần lớn đều bị ỉm đi bởi các phương tiện truyền thông. Năm 1990, cuối cùng tên tội phạm này cũng đã bị bắt. 14/4/1992, hắn ra tòa với chiếc lồng kín được thiết kế nhằm bảo vệ chính hắn. Gia đình các nạn nhân đã có mặt ở đó và gào thét đòi công lý được thực thi. Thậm chí, họ đã yêu cầu tòa thả hắn ra để họ có thể tự tay làm điều đó. Nhưng cuối cùng, Chikatilo vẫn bị xử tử hình đến….53 lần, mỗi án tử hình tương ứng với một tội ác mà hắn đã phạm phải. 5. Joachim Kroll Tay sát nhân hàng loạt này cũng được biết đến như một kẻ ăn thịt người đầy thú tính. Nổi danh với những cái tên như “The Ruhr Cannibal” và “Duisburg Man Eater”, hắn đã bị buộc tội sát nhân trong 8 vụ án, nhưng thậm chí hắn còn thừa nhận thêm 5 vụ khác. Ngày 3/7/1976, Kroll bị bắt giữ vì tội bắt cóc và giết hại một bé gái 4 tuổi tên là Marion Katter. Khi cảnh sát lục soát từng căn nhà một trong chung cư hắn sinh sống, một người hàng xóm đã đến trình diện và kể lại một chi tiết lạnh gáy. Khi đường nước thải dùng chung của 2 căn hộ bị tắc, người hàng xóm này đã sang hỏi xem Kroll đã xả gì xuống đó. Ông nhận được câu trả lời thản nhiên, “Ruột”. Dựa vào tình tiết này, cảnh sát đã đi vào khám xét và phát hiện ra nhiều chi tiết thậm chí còn kinh tởm hơn xác của một vài bé gái đã bị cắt ra làm nhiều mảnh nhỏ. Kroll thừa nhận tất cả những hành vi ghê rợn của mình, hắn cho rằng hắn cần làm thế để “tiết kiệm chi phí mua sắm thức ăn”. Vô cùng bình tĩnh, hắn tin rằng tòa sẽ chỉ xử rất nhẹ nhàng bởi lối sống “tiết kiệm và lành mạnh” của mình. Hiển nhiên là Kroll sẽ không bao giờ đạt được ước nguyện. Hắn bị cáo buộc với tội danh sát nhân ở ít nhất 8 vụ án, và mưu đồ sát nhân ở một vụ án khác. Sau những phiên tòa kéo dài đến 151 ngày, cuối cùng, Kroll cũng đã chịu thừa nhận tất cả tội ác và lãnh 9 án tù chung thân. Hắn chết vào năm 1991 vì một cơn đột quỵ tại nhà tù Rheinbach, gần Bohn. 4. Dennis Rader Rader, một tay sát nhân hàng loạt người Mỹ, một cơn ác mộng thực sự vào giai đoạn 1974-1991 dưới biệt danh sát thủ BTK, một biệt danh diễn tả chính xác hành vi cầm thú của hắn Blind mù quáng, Torture hành hạ và Kill hạ sát. Những mô tả về tay sát nhân này rõ ràng cho thấy bộ mặt vô nhân tính của hắn. Không hề có một chút thương xót nào dành cho nạn nhân, thậm chí, hắn xếp họ xuống ngang hàng súc vật. Hắn thường đặt tên cho mỗi vụ án của mình là một “dự án”, và mỗi khi thành công, cái chết của nạn nhân được ghi chép không khác gì thành công của một vụ thử nghiệm. Rối loạn tình dục có vẻ như là đặc điểm chung của những tên sát nhân hàng loạt, và Rader cũng không phải ngoại lệ. Hắn thường trói nạn nhân lại, bóp cổ họ đến khi họ mất ý thức. Sau đó, hắn sẽ tìm cách hồi sức để nạn nhân tỉnh lại, và tiếp tục bóp cổ họ. Quy trình được lặp đi lặp lại nhiều lần, hắn buộc nạn nhân phải trải qua những trải nghiệm đầy đau khổ. Rader trở nên cực kỳ nổi tiếng với hành động thách thức chính quyền, bằng cách gửi những lá thư đến các tờ báo và sở cảnh sát, diễn tả chính xác những gì hắn đã làm với nạn nhân. Cái tên BTK trở nên nổi danh từ đó. Nhưng cuối cùng, hắn cũng đã sa lưới pháp luật và nhận án tù chung thân – án phạt mà hiện nay hắn vẫn đang phải tiếp tục thực hiện. 3. John Haigh John George Haigh 24/07/1909 – 10/08/1949, được biết đến với cái tên “The Acid Bath Murderer”, là hung thủ của 6 vụ giết người, mặc dù hắn thừa nhận mình đã thực hiện đến 9 vụ. Thủ đoạn của hắn thường là hạ sát, phân hủy xác nạn nhân trong acid sulfuric và bán chỗ tài sản của họ để thu lợi bất chính. Hắn thực hiện điều này dựa trên niềm tin đầy ngu xuẩn rằng cảnh sát sẽ chẳng có cớ gì bắt giữ nếu họ không có cái xác làm bằng chứng. Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều bằng chứng khác đã buộc hắn phải ra trước vành móng ngựa và bị kết án tử hình vào ngày 10/8/1949. Sau khi thuê phòng ở đường Glouster, London, hắn làm quen với một người đàn ông giàu có tên là William McSwann tại một câu lạc bộ ở Kensington. McSwann giới thiệu Haigh với cha mẹ anh, Donald và Amy, và họ có đề cập đến việc sở hữu một khối tài sản khá lớn. 6/9/1944, McSwann biến mất. Haigh thú nhận rằng hắn đã hạ sát anh sau khi dụ anh vào căn nhà số 79 đường Gloucester, sau đó, đặt xác anh vào một thùng chứa 40 gallon rượu và hòa acid sulfuric vào đó. Hai ngày sau, cái xác đã phân hủy hoàn toàn và hắn dễ dàng phi tang mọi chứng cứ. Hắn nói với cha mẹ của McSwann rằng con trai họ đã bay đến Scotland để tránh bị gọi đi nghĩa vụ quân sự. Hắn cũng dễ dàng thuyết phục 2 ông bà để hắn thay thế McSwann trong vai trò điều hành tài sản của anh, cho đến khi, họ thắc mắc tại sao con trai họ vẫn chưa quay về, mặc dù chiến tranh đã kết thúc. Lúc này, Haigh đã chọn cách hạ sát nốt 2 người này và sử dụng thủ đoạn tương tự để tiêu hủy xác họ. Cảnh sát nhanh chóng vào cuộc sau khi 2 con người tội nghiệp trên biến mất. Họ tìm thấy nhiều vật dụng và đồ đạc có liên quan tại căn hộ của Haigh, cùng với đó là những dung dịch bùn đặc sệt chưa tiêu hủy hết – những gì còn lại của một gia đình xấu số. Cuộc khám nghiệm giải phẫu bệnh sau đó đã nhanh chóng đưa ra kết quả sỏi mật của ba người trở thành bằng chứng không thể thuyết phục hơn giúp tống cổ tay sát nhân này xuống địa ngục. 2. Javed Iqbal Javed Iqbal Mughal 1956 – 2001, là một tay sát nhân hàng loạt đến từ Lahore, Punjab, Pakistan. Hắn tự thừa nhận mình đã hạ sát 100 bé trai chỉ trong khoảng thời gian 18 tháng. Hắn bị bắt giữ vào tháng 7/1998 bởi tội danh quấy rối tình dục 2 bé trai. Dễ dàng thoát ra nhờ tiền bảo lãnh, hắn nhanh chóng bắt đầu series tội ác của mình. Iqbal thường tìm kiếm nạn nhân một cách ngẫu nhiên, dụ các bé vào nhà chơi, sau đó đánh thuốc mê, trói chặt và hiếp dâm các em. Sau đó, hắn cắt những xác chết ra làm nhiều mảnh nhỏ và tiêu hủy chúng trong một chiếc thùng chứa đầy acid chlohidric. Hắn thường giữ lại quần áo và giầy dép của nạn nhân, như là biểu tượng chiến thắng cho mỗi tội ác của mình. Sau tội ác số 15, thậm chí, hắn còn bắt đầu chụp ảnh cùng nạn nhân. Kinh hoàng hơn, chưa một ai để ý đến những đứa bé bị mất tích. Iqbal thừa nhận rằng, con số này có thể lên đến 500 nếu hắn muốn. Hắn thản nhiên phát biểu “Tôi là Javed Iqbal, kẻ đã giết chết 100 đứa trẻ. Tôi căm ghét thế giới này, tôi không xấu hổ về hành vi của mình, và tôi đã sẵn sàng để chết. Tôi không hề hối hận. Chính tôi đã làm điều đó.” Iqbal bị xử tử hình bằng cách treo cổ. Quá ghê tởm trước tội ác của hắn, thẩm phán đã nói rằng, nếu có thể, ông sẽ khiến hắn bị treo cổ 100 lần, cắt ra làm 100 mảnh và quẳng chúng vào thùng acid. 1. Ted Bundy Theodore Robert “Ted” Bundy 24/11/1946 – 24/1/1989, một trong những tên sát nhân nổi danh nhất trong lịch sử nước Mỹ. Bundy đã cưỡng hiếp và sát hại hàng loạt phụ nữ trong những năm từ 1974 đến 1978. Sau hơn 1 thập kỷ ngoan cố chối tội, cuối cùng, Bundy đã phải thú nhận hơn 30 vụ sát hại, mặc dù, con số chính xác chắc chắn phải hơn thế rất nhiều. Bundy rất táo bạo trong cách tiếp cận nạn nhân hắn sẵn sàng gặp mặt họ giữa ban ngày ban mặt, thậm chí là giữa chốn đông người. Hắn có rất nhiều cách để lấy được lòng tin của nạn nhân khi thì giả dạng người tàn tật như trong vụ hãm hại Hawkins, Rancourt, Ott, Naslund và Cunningham, khi thì đóng vai cảnh sát như ở vụ Carol DaRonch, thậm chí là dưới lốt nhân viên cứu hỏa như khi hắn sát hại Kimberly Leach. Sau khi đã thành công trong việc dụ dỗ nạn nhân, hắn sẽ hạ gục họ bằng một cây gậy đánh thẳng vào đầu. Mỗi một vụ án được phát hiện ra, thi thể đều có dấu vết của chấn thương vùng đầu do va đập. Thêm vào đó, Bundy thường uống rượu trước khi truy tìm nạn nhân. Trong phiên tòa, Bundy cũng thú nhận hành vi dùng cưa xẻ xác ít nhất hàng chục nạn nhân. Hắn thường chặt đầu họ và đem lưu giữ ngay tại căn phòng của hắn. Hắn coi đây là những kỷ vật thân thương, nơi hắn nằm lại, và thậm chí, quan hệ với cái xác trước khi buộc phải phân hủy chúng để phi tang. Mặc dù có đến 5 luật sư bào chữa, nhưng Bundy vẫn lựa chọn quyền tự bào chữa cho mình trước tòa. Lý lẽ của hắn đã buộc thẩm phán phải thốt lên rằng “Anh sẽ bị tử hình bởi ghế điện, dòng điện sẽ đi qua cơ thể anh cho đến khi anh chết. Hãy tự bảo trọng, chàng trai trẻ, tôi thành thật đấy, xin hãy tự bảo trọng. Thật bi kịch khi phải chứng kiến một sự lãng phí đến vậy. Anh quả thật là một chàng trai thông minh. Anh rất có thể đã là một luật sư giỏi, và tôi sẽ vô cùng hân hạnh để anh làm việc ở đây, trước mặt tôi, nhưng anh đã đi nhầm đường. Tôi muốn anh biết rằng, tôi không hề thù hận anh. Một lần nữa, hãy tự bảo trọng.” Bundy bị xử tử hình vào lúc 706 sáng ngày 24/1/1989 theo giờ địa phương. Lời cuối cùng của hắn là “Tôi muốn gửi tình yêu của mình đến gia đình và bạn bè tôi.” Theo TRÍ THỨC TRẺ Tags Tổng quan lịch sử thế giới, Tội phạm The Magic Bartender- -•13+2017Chinese MainlandRomanceFantasyFriendshipYouthActorZhang Song ZhiAngie CheungThe Magic BartenderThe Magic BartenderCity of LustSex Phone and The Girl Next DoorFriendship with SleepingCheck out Special EpisodeSubmissionLonely Lonely Rich LadyMy Wife is 18The First NightMy Sassy HubbyLust,LoveThe AttorneyMy Harakuro BossPerfect Match True LoveEveryday is ValentineSniper vengeanceNortheastern Bro II Endless loveI Now Pronounce You Chuck & LarryThe Wicked WifeEternal Sunshine of the Spotless MindThe Untamed Living Dead- -•13+2017Chinese MainlandRomanceFantasyFriendshipYouthActorZhang Song ZhiAngie Cheung Bạn có muốn biết những gì lệnh mê hoặc Minecraft? Trong bài viết này, bạn sẽ tìm hiểu trò chơi nào hay nhất trong trò chơi điện tử nổi tiếng này! Cần lưu ý rằng với những lệnh này, bạn sẽ không cần phải sử dụng bình thuốc hay thu thập nguyên liệu để chế tạo chúng. Hãy bắt đầu với bài viết mới này! Lệnh Bùa Minecraft Nếu bạn muốn biết cái nào là tốt nhất lệnh mê hoặc Minecraft, Yên lặng! Vì, dưới đây chúng tôi sẽ để lại cho bạn một danh sách đầy đủ với tất cả các lệnh mê hoặc LệnhMê hoặc/ mê mẩn [Tên người chơi] aqua_affinity [Cấp độ mê hoặc]Thủy sinh/ mê hoặc [Tên người chơi] bane_of_arthropods [Cấp độ mê hoặc]Bane of the Arthropods / Cơn ác mộng của động vật Chân khớp/ mê mẩn [Tên người chơi] bind_curse [Cấp độ mê hoặc]Lời nguyền liên kết/ mê hoặc [Tên người chơi] blast_protection [Cấp độ mê hoặc]Chống cháy nổ/ mê hoặc [Tên người chơi] chuyển kênh [Cấp độ mê hoặc]Độ dẫn nhiệt/ mê hoặc [Tên người chơi] depth_strider [Cấp độ mê hoặc]Sự nhanh nhẹn dưới nước/ mê hoặc [Tên người chơi] hiệu quả [Cấp độ mê hoặc]hiệu quả/ mê hoặc [Tên người chơi] fur_falling [Cấp độ mê hoặc]Thả lông/ Enchant [Tên người chơi] fire_aspect [Mức độ mê hoặc]Khía cạnh của lửa / Khía cạnh của lửa / Khía cạnh của sự cháy/ Enchant [Tên người chơi] fire_protection [Mức độ mê hoặc]Bảo vệ chống lại ngọn lửa/ mê hoặc [Tên người chơi] ngọn lửa [Cấp độ mê hoặc]Ngọn lửa / Lửa / Mũi tên gây cháy/ mê hoặc [Tên người chơi] tài sản [Cấp độ mê hoặc]Tài sản/ mê hoặc [Tên người chơi] frost_walker [Cấp độ mê hoặc]Bước băng giá/ Enchant [Tên người chơi] impaling [Mức độ mê hoặc]Impalement/ mê hoặc [Tên người chơi] vô cực [Cấp độ mê hoặc]vô cực/ mê hoặc [Tên người chơi] hạ gục [Cấp độ mê hoặc]Hồi phục/ mê hoặc [Tên người chơi] cướp bóc [Cấp độ mê hoặc]Cướp bóc / cướp bóc/ mê hoặc [Tên người chơi] lòng trung thành [Mức độ mê hoặc]Lòng trung thành/ mê hoặc [Tên người chơi] luck_of_the_sea [Cấp độ mê hoặc]May mắn biển / Sự may mắn của biển cả/ mê hoặc [Tên người chơi] thu hút [Cấp độ mê hoặc]Lure / Attraction/ mê hoặc [Tên người chơi] hàn gắn [Cấp độ mê hoặc]Sửa chữa/ Enchant [Tên người chơi] multishot [Mức độ mê hoặc]Nhiều shot/ mê hoặc [Tên người chơi] xuyên [Cấp độ mê hoặc]Khoan/ mê hoặc [Tên người chơi] sức mạnh [Cấp độ mê hoặc]Năng/ mê hoặc [Tên người chơi] projectile_protection [Cấp độ mê hoặc]Bảo vệ đường đạn/ mê hoặc [Tên người chơi] bảo vệ [Cấp độ mê hoặc]Bảo vệ/ mê hoặc [Tên người chơi] cú đấm [Cấp độ mê hoặc]Cú đấm/ mê hoặc [Tên người chơi] quick_charge [Cấp độ mê hoặc]Sạc nhanh/ mê hoặc [Tên người chơi] hô hấp [Cấp độ mê hoặc]Hơi thở/ mê hoặc [Tên người chơi] riptide [Cấp độ mê hoặc]Lực đẩy nước / Dòng biển/ mê hoặc [Tên người chơi] độ sắc bén [Cấp độ mê hoặc]Cạnh / Độ sắc nét/ mê mẩn [Tên người chơi] silk_touch [Cấp độ mê hoặc]Chạm lụa/ mê hoặc [Tên người chơi] smite [Cấp độ mê hoặc]Đánh / Trừng phạt / Đập/ mê hoặc [Tên người chơi] quét [Cấp độ mê hoặc]Quét cạnh / Quét/ mê hoặc [Tên người chơi] gai [Cấp độ mê hoặc]Gai/ mê hoặc [Tên người chơi] đang mở [Cấp độ mê hoặc]Không thể phá vỡ / Độ bền/ mê hoặc [Tên người chơi] vanishing_curse [Cấp độ mê hoặc]Lời nguyền biến mất/ mê hoặc [Tên người chơi] soul_speed [Cấp độ mê hoặc]Tốc độ linh hồn Bốn mươi ngày trước lễ Phục Sinh là thời gian Mùa Chay. Trong Mùa Chay Giáo Hội kêu gọi mọi người thực hành ba việc truyền thống là cầu nguyện, giữ chay và bố thí. Giáo dân thường nghĩ giữ chay là phải ăn kiêng, việc làm khắc khổ này trong thuật từ cổ gọi là khổ chế. Vậy khổ chế là gì?Trong tiếng Việt, nhiều tác giả Công Giáo xưa nay thường sử dụng từ khổ chế để dịch từ ascesis hoặc mortificatio mà không có phân biệt. Ví dụ Trong Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, chúng ta thấy có những nơi ascèse dịch là khổ chế "Ai muốn trung thành với những lời hứa khi được rửa tội và chống lại các cơn cám dỗ, phải dùng những phương thế sau phải biết mình, khổ chế tùy theo hoàn cảnh, tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa, thực hành các đức tính luân lý và chuyên cần cầu nguyện" [1] GLCG 2340, xem thêm 2733, 2755,.... Nhưng cũng có chỗ mortificatio dịch là khổ chế "Như các ngôn sứ tiên tri thuở trước, lời Chúa Giêsu kêu gọi hoán cải và thống hối, trước hết không nhắm đến những việc bên ngoài, 'mặc áo vải thô, rắc tro trên đầu', giữ chay và khổ chế, nhưng đến hoán cải trong lòng, thống hối nội tâm..."[2] GLCG 1430, xem thêm 2015,....Trong Thuật Ngữ Thần Học Anh Việt của Học viện Đa Minh Gò Vấp 2003 "Asceticism khổ chế, khổ luyện, khắc khổ Hl askêsis thao luyện, từ bỏ.... Mortification hãm mình, khổ chế Lt mortificare làm chết đi..."I. Nghĩa của hai từ ascesis và Ascesis Lt; ascetic A; ascèse Ph Khổ chế, khổ hạnh, khổ tu... Xuất xứ từ tiếng Hy Lạp là asketikos tt. khắc khổ, tự chế cách nghiêm ngặt; danh từ asketes dt. chỉ một người thuộc các Kitô hữu thời sơ khai ẩn mình trong sa mạc để sống đời sống chiêm niệm và cầu nguyện cách ly với xã hội, mà về sau gọi là thầy tu, nhà khổ tu, hay ẩn sĩ. Gốc của các từ này do động từ askein đt. tập luyện thể thao hay tập luyện các đức tính. Các tác giả La Tinh đã không sử dụng thuật từ này, nhưng họ chỉ dịch hoặc dùng những từ tương đương, chẳng hạn từ disciplina; cũng như nhiều khái niệm riêng của người Roma thường mang dấu ấn binh trường, ascesis trong tiếng La Tinh trước hết là sự tập luyện sử dụng vũ khí. Truyền thống đan tu đã mang đến cho từ này một ý nghĩa kỹ thuật rất chính xác, nó nói lên cuộc chiến đấu nội tâm để đạt được việc tinh thần chế ngự trên vật chất. Truyền thống thời trung cổ đã sử dụng rộng rãi từ exercitium exercitus binh đoàn.Ý nghĩa tôn giáo, ascesis là "những hình thức kỷ luật, bao hàm việc khước từ những ý muốn hoặc sở thích, nhằm thông dự vào cuộc tử nạn của Đức Kitô và tuân hành ý Chúa"[3]. Cha Olivier định nghĩa ascesis là "những nỗ lực có phương pháp, những tập luyện kiên trì của ý chí, được ân sủng nâng đỡ, nhằm hãm dẹp những khuynh hướng xấu hoặc nguy hiểm nhằm phát huy những nhân đức, để làm cho mình được đẹp lòng Chúa"[4].Như vậy, ascesis là một danh từ chuyên biệt, để chỉ một hình thức tu luyện bắt cơ thể phải từ bỏ một số nhu cầu cơ bản và dục vọng, đặc biệt là nhục dục. Nói chung là những cố gắng tu luyện để đạt tới niềm tin sống lý tưởng trong tâm linh. Vì vậy, từ này phát sinh ra những từ như asceta ascetic, ascète người sống khổ hạnh, nhà khổ tu; asceterium monastery, ascétère cộng đoàn khổ chỉ những hình thức khác nhau của ascesis, Thánh Kinh sử dụng nhiều từ tương đương như1 Chiếu đấu nội tâm spiritual battle, combat spirituel "Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin" 2Tm 4,7.2 Rèn luyện train, former "Người chịu rèn luyện như thế sẽ gặt được hoa trái là bình an và công chính" Dt 12,11.3 Diệt dục mortification "Nếu anh em sống theo tính xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em, thì anh em sẽ được sống." Rm 8,13.2. Mortificatio Lt; mortification A, Ph Khổ chế, hành xác, hãm mình, tiết dục...Xuất xứ từ tiếng La Tinh mortificatio La ngữ muộn thời mortificationem, gốc do động từ mortificare La ngữ muộn thời mortificar mors sự chết + facere làm ra làm cho chết, gây ra cái chết. Trong tiếng Anh, ý nghĩa "cảm thấy sỉ nhục" được ghi nhận lần đầu vào thập niên nghĩa tôn giáo, mortificatio là "tiến trình của người Kitô hữu tiêu diệt làm chết những tội lỗi ở trong mình, qua việc thống hối và chiến đấu chống lại các nết xấu"[5]. Cha Tanquerey định nghĩa mortificatio là "chiến thắng các khuynh hướng xấu để bắt nó đầu hàng ý chí và bắt ý chí phục tùng Thiên Chúa"[6].Như vậy, mortificatio là một danh từ thông loại, để chỉ tất cả cái dẹp yên những khuynh hướng xấu có thể làm thương tổn đời sống tinh thần và siêu nhiên. Mortificatio không phải là một nhân đức riêng biệt, nhưng là sự tổng hợp các nhân đức, là bước đầu của các nhân đức, vì mục đích của nó là cốt bài trừ các trở lực, để đạt trật tự và quân bình giữa các tài năng con người. Mortificatio không phải là mục đích, chỉ là phương tiện, nghĩa là người ta hành xác, diệt dục tức là làm chết đi để sống cái sống cao quý hơn, xả kỷ để được Thiên Chúa, chiến đấu để hưởng bình an, chết cho mình để sống bằng sự sống của Thiên Chúa. Nói tóm lại Sống kết hợp với Chúa đó là mục đích của mortification [7].Để chỉ những hình thức khác nhau của mortificatio, Thánh Kinh sử dụng nhiều từ tương đương như1 Từ bỏ renounciation, renoncement "Ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được" Lc 14,33 Câu này trình bày khổ chế là dứt lòng dính bén của cải vật chất để theo Xả kỷ abnegation, abnégation "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo" Lc 9,23 lòng tự ái quá độ phải diệt Đóng đinh crucifixion, crucifiement "Những ai thuộc về Đức Kitô Giêsu thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê."Gl 5, 24.4 Tử táng death and burial, mort et ensevelissement "Anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa". Col 3,3; "Thiên Chúa làm như vậy, để sự công chính mà Luật đòi hỏi được hoàn toàn thực hiện nơi chúng ta, là những người không sống theo tính xác thịt, nhưng theo Thần Khí" Rm 8,4.5 Bỏ người cũ "Anh em đừng nói dối nhau, vì anh em đã cởi bỏ con người cũ với những hành vi của nó rồi" Col 3,9 Người cũ đây là dục Nghĩa của những chữ khổ, chế và thuật từ khổ Khổ có hai chữ Hán 苦, 楛, trong thuật từ khổ chế là chữ苦. 苦 khổ có bộ thảo 艸, nguyên là tên một thứ thảo mộc rất đắng, nảy sinh những ý nghĩa này dt. 1 Một loại trà; 2 Đắng, một trong năm vị, nghịch với ngọt; 3 Khốn khó đồng cam cộng khổ chia ngọt sẻ bùi; đt. 4 Mệt nhọc ; 5 Lo quá khổ hàn rét khổ; 6 Chịu khó khắc khổ; tt. 7 Cay đắng Khổ tâm; 8 Vất vả Khổ lực; trt. 9 Rất, dùng hết sức Khổ tư nghĩ nát óc.Nghĩa Nôm tt. 1 Vất vả Khổ sở; dt. 2 Cỡ Giấy khổ lớn; 3 Hình dáng Khổ mặt xương xương; 4 Tấm gỗ cài răng lược giúp thợ dệt ghim chặt sợi chỉ từ con Chế có bốn chữ Hán 制, 製, 猘, 狾. Ở đây là chữ制 chế. Chế có những nghĩa này dt. 1 Phép định ra, hệ thống, những quy định đặt ra phải tuân theo Chế độ, thể chế; 2 Lời của vua Chế thư thư của vua; 3 Để tang ba năm cho cha mẹ Thủ chế để tang; 4 Đồ mặc Chế phục đồng phục 5 Họ Chế; 6 Tên họ vua Chiêm; đt. 7 Làm ra, tạo đồ dùng Việt nam chế phẩm; 8 Đặt ra, quy ước, quy định Chế lễ tác nhạc đặt ra lễ nhạc; 9 Bó buộc, bắt chịu quyền, bắt theo ý mình Chế phục, khống chế; 10 Cai quản thống chế; 11 Cầm giữ Chế kỳ tử mệnh cầm cái sống chết của người; 12 Thay đổi cho thích hợp Chế Khổ chế không có nghĩa là "khổ công chế ra" hay "khổ vì chế độ" như ai đó đã nói!Hiểu theo mặt chữ nghĩa hẹp khổ chế là những quy định khắc khổ phải tuân Vài nhận xét. - Các từ điển ngoài Công Giáo thường không có thuật từ khổ chế, mà chỉ có thuật từ khổ hạnh [8].- Khổ chế là thuật ngữ riêng của Công Giáo. Theo chúng tôi, thuật từ này do Đức Ông Trần Văn Hiến Minh và các cha trong Ban giáo sư Trường Thần Học Bùi Chu tạo ra từ thập niên 50. Xưa kia người ta thường dùng thuật từ hãm mình để nói về những việc gìn giữ ngũ quan, hãm dẹp những việc của xác thịt, từ bỏ những tiện nghi riêng, kiêng khem và đánh tội...Trong quyển Danh Từ Thần Học và Triết Học của trường này xuất bản năm 1952, chúng ta thấy thuật từ "khổ chế" được dùng để dịch chữ mortification, "chế thể" mortification extérieure và "chế tâm" mortification intérieure, tức là bộ ba từ Hán Việt thay cho các từ "hãm mình", "hãm mình bên trong" và "hãm mình bề ngoài" vốn đã có từ lâu trong các sách Công Giáo [9].- Hai thuật từ "chế thể" và "chế tâm" đã không được phổ biến, riêng từ "khổ chế" thì được nhiều soạn giả sách tu đức dùng như là đồng nghĩa với từ hãm mình [10].- Nhưng trong vài thập niên sau đó, thuật từ "khổ chế" lại được dùng để dịch chữ ascesis tức là đồng nghĩa với thuật từ khổ hạnh [11].IV. Kết Xét về từ nguyên thì khổ chế thích hợp để dịch từ ascesis và hãm mình thích hợp để dịch từ mortificatio hơn Xét về ý nghĩa tôn giáo thì khổ chế cũng thích hợp để dịch thuật từ mortificatio như thói quen hiện nay chúng ta vẫn "Con đường tiến đến hoàn thiện phải ngang qua Thập Giá. Không thể nào đạt được sự thánh thiện, nếu không có từ bỏ và chiến đấu nội tâm. Sự tiến bộ thiêng liêng đòi phải có khổ chế và hãm mình ascesis and mortification, từng bước giúp người tín hữu sống trong bình an và hoan lạc của các mối phúc thật" GLCG 2015._______________________________________Ghi chú[1] "Celui qui veut demeurer fidèle aux promesses de son Baptême et résister aux tentations veillera à en prendre les moyens la connaissance de soi, la pratique d’une ascèse adaptée aux situations rencontrées, l’obéissance aux commandements divins, la mise en œuvre des vertus morales et la fidélité à la prière" CATÉCHISME de L’ÉGLISE catholique, No. 2340.[2] "Comme déjà chez les prophètes, l’appel de Jésus à la conversion et à la pénitence ne vise pas d’abord des œuvres extérieures, 'le sac et la cendre', les jẻnes et les mortifications, mais la conversion du cœur, la pénitence intérieure" ibid. No. 1430.[3] Học viện Đa Minh Gò Vấp, THUẬT NGỮ THẦN HỌC ANH VIỆT, 2003. Olivier de La Brosse & Ntg, DICTIONNAIRE DE LA FOI CHRÉTIENNE, Cerf, Paris, 1968.[5] Học viện Đa Minh Gò Vấp, THUẬT NGỮ THẦN HỌC ANH VIỆT, 2003, tr. 158.[6] Adolphe Tanquerey, PRÉCIS DE THÉOLOGIE ASCÉTIQUE ET MYSTIQUE "la lutte contre les inclinations mauvaises pour les soumettre à la volonté et celle-ci à Dieu". Matthêô Phạm Hảo Kỳ, TU ĐỨC HỌC, ĐCV Sài Gòn, 1964-1965.[8] Thuật từ khổ hạnh thường được dùng để dịch từ ascèse xem PHÁP VIỆT TỪ ĐIỂN của Đào Đăng Vỹ, xb. lần III, 1960 ascèse tâm thuật nhà khổ hạnh.[9] Vì thế, trong quyển TỪ ĐIỂN VÀ DANH TỪ TRIẾT HỌC Ra Khơi, Sài Gòn, 1966 của mình, ĐÔ. Trần Văn Hiến Minh không dịch chữ ascèse là khổ chế, mà dịch là khổ hạnh; tu đức; tu hành tr.[14] và ngài giải thích khổ hạnh là tu hành khắc khổ nhiệm nhặt... Ví dụ Xem Matthêô Phạm Hảo Kỳ, TU ĐỨC HỌC, ĐCV Sài Gòn, 1964-1965, tr. 70; P. Lethielleux, ĐẠO ĐỨC KITÔ GIÁO, bản dịch khuyết danh, ronéo, tr. 410-420,, Ví dụ Công Đồng Vaticanô II sử dụng thuật từ mortificatio 4 lần SC 12, UR 4, PC 12 và PO 12 và ascesis cũng 4 lần NA 2, AG 18, PO 13 và 16, bản dịch của GHHV Thánh Piô X Đà Lạt, 1972 dịch mortificatio là khổ chế 2 lần, hãm mình 2 lần; còn ascesis thì dịch là khắc khổ 1 lần, khổ hạnh 2 và khổ chế 1 lần. Trong Paul Evdokimov, ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG XƯA VÀ NAY, Giuse Đỗ Ngọc Bảo OP dịch, Chân Lý xb, 2000 ascesis dịch là khổ chế. Posted on 13/11/2014 in Đô Thị TẢI XUỐNG VUI LÒNG ĐĂNG NHẬP Tên khác Chế Phục Hạ Đích Cám Dỗ Tình trạng Nguyên Bản C129 Tên tiếng trung 制服下的诱惑 Tác giả Mộ sinh 暮生 Text Dragondark Convert Dragondark Ebook Nguyen Quang Ha Nội dung Xinh đẹp lão sư, ôn nhu Bạch Y thiên sứ, xinh đẹp tiếp viên hàng không… Đồng phục mê hoặc biểu hiện vô cùng nhuần nhuyễn… Lưu ý Ebook có hình ảnh và nội dung nhạy cảm, đề nghị cân nhắc kỹ trước khi xem, kẻo tinh tẫn nhân vong. You might also like...

hãm hiếp 2 chế phục mê hoặc