Thay khớp gối là phương pháp thay thế phần khớp gối bị hư hỏng nặng bằng khớp gối nhân tạo. Vậy sau khi thay khớp gối có đi lại bình thường được không?
Một số phương pháp điều trị đau sau mổ phổ biến là: Thuốc uống: Cho người bệnh sử dụng các loại thuốc giảm đau sau mổ không thuộc họ morphine. Điều trị đau sau mổ bằng thuốc uống thường được áp dụng cho các bệnh nhân mẫu thuật về trong ngày. Người bệnh có
định mổ lấy thai và giảm đau sau mổ, áp dụng phương pháp GTTS được chia thành 3 nhóm. 7mg Bupivacaine phối hợp với 25 g Fentanyl (nhóm I), 0.10mg morphine (nhóm II), 0.15mg morphine (nhóm III). Thời gian chờ tác dụng vô cảm, thời gian giảm đau sau mổ, lượng thuốc
Phương pháp này giữ cho vận động cột sống bình thường, giảm áp lực lên bề mặt khớp và duy trì đường cong tự nhiên của cột sống.Thời gian phục hồi của người bện sau khi thực hiện phẫu thật là 6 tháng.
Một trong những phương pháp phổ biến hiện nay là sử dụng kem thoa sẹo. Thế nhưng bạn có biết thành phần nào trong tuýp kem ấy giúp loại bỏ các vết sẹo và cơ chế hoạt động của chúng là như thế nào? Bài viết sau đây sẽ giúp bạn hiểu hơn về những tuýp kem thoa sẹo. Axit
Vay Tiền Trả Góp 24 Tháng. ĐTĐ – Thực hiện giảm đau sau mổ tốt sẽ ảnh hưởng tích cực đến tâm lý và giúp bệnh nhân phục hồi nhanh sau khi được phẫu thuật. Theo bác sĩ BS Nguyễn Văn Chinh, Trưởng khoa Gây mê hồi sức Bệnh viện BV Nguyễn Tri Phương, trong lúc phẫu thuật, nhờ được gây mê hoặc gây tê, chắc chắn bệnh nhân sẽ không thấy đau. Nhiều giờ sau, khi thuốc tê, thuốc mê đã hết tác dụng, nếu điều trị đau không tốt, bệnh nhân vẫn có thể chịu đựng được nhưng cảm giác đau sẽ trở thành cảm xúc lo lắng, sợ hãi. Giảm đau tốt sẽ giúp bệnh nhân phục hồi nhanh sau phẫu thuật Tâm lý không ổn định sẽ khiến họ càng đau hơn, thậm chí nổi giận với thầy thuốc, không hợp tác điều trị, ảnh hưởng xấu đến quá trình hồi phục. Ngoài ra, bị đau nhiều có thể làm tăng nặng các bệnh lý nội khoa như tim mạch, tiểu đường, hô hấp… Hiện nay, bệnh nhân cần được điều trị bằng phẫu thuật có thể yên tâm vì các phương pháp giảm đau sau mổ có rất nhiều tiến bộ. Nhờ những nghiên cứu giúp phát hiện các thụ thể đau ở tủy sống và các cơ chế gây đau, BS có thể dùng thuốc tác động trực tiếp lên những vùng đó để điều trị đau một cách hiệu quả. Dấu hiệu sinh tồn thứ 5 Cùng với mạch, huyết áp, nhiệt độ, nhịp thở, đau được xem là dấu hiệu sinh tồn thứ 5. Vì vậy, trước khi phẫu thuật, bệnh nhân phải được khám tiền mê, chuẩn bị tâm sinh lý cho cuộc mổ, tư vấn các phương pháp giảm đau, từ đó lên kế hoạch gây mê và giảm đau cho bệnh nhân. Trong quá trình điều trị đau, phải luôn đánh giá mức độ đau theo các thang điểm để đưa vào hồ sơ bệnh án và ghi thành biểu đồ. Căn cứ theo sự thay đổi các điểm đau để biết bệnh nhân đau nhiều hay ít, từ đó điều chỉnh liều lượng thuốc giảm đau thích hợp. BS sẽ theo dõi cả trước, trong và sau mổ theo phác đồ điều trị đau để đảm bảo tính liên tục. Nếu phải chuyển sang khoa khác, chỉ cần nhìn vào biểu đồ là biết bệnh nhân đau ở mức nào, dùng thuốc gì và đáp ứng ra sao để đưa ra phương thức điều trị thích hợp. BS Chinh cho biết, để tăng tính hiệu quả, bệnh nhân sẽ được giảm đau đa phương thức sau mổ, kết hợp cùng lúc nhiều kỹ thuật như truyền thuốc đường tĩnh mạch, gây tê vùng, gây tê trục thần kinh, giảm đau bằng làm lạnh, liệu pháp tâm lý, kích thích điện qua da… Đồng thời, thuốc giảm đau truyền vào người bệnh nhân cũng được dùng kết hợp để liều lượng, nồng độ thấp nhất nhằm giảm tối đa nguy cơ phản ứng phụ. Nhờ giảm đau tốt sau mổ, bệnh nhân có thể xuất viện sớm, tiết kiệm đáng kể chi phí điều trị. Thậm chí với một số trường hợp phẫu thuật nội soi ít xâm lấn, bệnh nhân có thể ra về trong ngày sau khi được tư vấn các phương pháp tự chăm sóc tại nhà. Xây dựng phác đồ bài bản Trao đổi với PV Thanh Niên, BS Tăng Hà Nam Anh, Trưởng khoa Chấn thương chỉnh hình BV Nguyễn Tri Phương, nhận định giảm đau sau mổ cực kỳ quan trọng đối với việc điều trị bằng phẫu thuật. Những kỹ thuật mới như mổ nội soi hay thay khớp với đường mổ nhỏ có lợi thế là chỉ 6 giờ sau mổ, BS có thể cho bệnh nhân tập vật lý trị liệu, sớm hơn rất nhiều so với trước đây đợi đến 3-4 ngày sau mới tập. Việc tập vật lý trị liệu rất quan trọng vì khớp cần được vận động sớm. Nếu giảm đau sau mổ không tốt, bệnh nhân sẽ không dám tập, để lâu có thể dẫn đến cứng khớp, ảnh hưởng lớn đến quá trình phục hồi chức năng. Bên cạnh đó, tâm lý bệnh nhân ai cũng sợ phải động chạm đến dao kéo, đặc biệt nếu đã từng một lần bị đau nhiều sau mổ. Với tâm lý này, bệnh nhân sẽ e ngại, tìm cách thoái thác khi BS cho chỉ định mổ, kéo dài thời gian làm tình trạng ngày càng xấu đi. Đến lúc không thể trì hoãn được nữa thì việc phẫu thuật đã trở nên phức tạp hơn rất nhiều. Theo BS Nam Anh, một trong những điểm quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả giảm đau sau mổ cho bệnh nhân là xây dựng phác đồ điều trị đau bài bản và kết hợp chặt chẽ giữa các khoa ngoại với khoa gây mê hồi sức. Tại Việt Nam, nhiều BV có thể thực hiện tốt những kỹ thuật giảm đau tiên tiến nhưng chỉ một phần nhỏ trong số đó xây dựng thành phác đồ chi tiết, có kiểm chứng, báo cáo để đánh giá hiệu quả. Đặc biệt, trong phác đồ điều trị đau phải có phần giải thích “chiến lược” giảm đau cho bệnh nhân mổ sẽ đau ra sao, cơn đau lan ra thế nào nhưng sẽ được sử dụng các thuốc gì để ngăn chặn… Một khi đã được tư vấn rõ ràng, bệnh nhân sẽ không còn hoang mang, lo lắng. Tâm lý trở nên ổn định cũng đã giúp giảm đau vài phần. Ở những BV bị quá tải, vẫn có thể thực hiện được việc này bằng cách in lại phác đồ điều trị đau lên tờ rơi để phát cho bệnh nhân khi được chỉ định phẫu thuật. Nguồn Lượt xem xếp hạng 5 sao xếp hạng 5 sao xếp hạng 5 sao – xếp hạng 5 sao ý Việc đáp ứng với các liệu trình điều trị, máy, thiết bị trợ giúp là khác nhau tùy thuộc cơ địa mỗi người ! Những thông tin y học trên website chỉ mang tính tham khảo, bạn không được tự ý áp dụng nếu chưa được sự chỉ dẫn của thầy thuốc !Phòng khám Cột sống 589 Hoàng Hoa Thám, Ba Đình, Hà Nội Phụ trách chuyên môn BS Mai Trung Dũng Bác sĩ chuyên khoa cấp II Đại học y Hà hội - 2015 Trưởng Khoa Phục hồi chức năng Bệnh viện Quân y 354 Uỷ viên BCHTW Hội Phục hồi chức năng Việt NamCó thể bạn quan tâm
Bài viết được tư vấn chuyên môn bởi Bác sĩ chuyên khoa I Nguyễn Đức Thông - Bác sĩ Gây mê hồi sức - Khoa Ngoại tổng hợp - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Đà Nẵng. Điều trị giảm đau sau mổ là điều cần thiết đối với mỗi bệnh nhân sau các cuộc phẫu thuật. Bác sĩ sẽ dựa vào các điều kiện của người bệnh để đưa ra phác đồ điều trị giảm đau sau mổ hiệu quả nhất bằng cách lựa chọn các phương pháp như Sử dụng thuốc giảm đau hoặc gây tê vùng cho bệnh nhân. 1. Vì sao phải điều trị giảm đau sau mổ? Đau sau mổ là điều làm nhiều người bệnh lo sợ từ trước khi thực hiện phẫu thuật, là vấn đề ảnh hưởng đến tâm lý người bệnh trước và sau phẫu thuật. Nó có thể ảnh hưởng đến nhiều cơ quan như hô hấp, tuần hoàn, nội tiết, gây ức chế hệ miễn dịch của cơ thể con điều trị giảm đau sau phẫu thuật không chỉ là việc giúp bệnh nhân giảm bớt những đau đớn trên cơ thể sau khi trải qua một buổi phẫu thuật mà còn liên quan đến vấn đề đạo đức nghề nghiệp, bác sĩ không thể thờ ơ trước việc bệnh nhân có biểu hiện đau đớn và phải tìm ra phương pháp giúp đỡ người người bệnh không được điều trị giảm đau sau mổ sẽ gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm, có thể gây tử vong nếu không được điều trị kịp thời. Nếu đau chuyển sang đau mạn tính thì người bệnh sẽ phải chịu những cơn đau dai dẵng kéo dài làm giảm chất lượng sống. Vì vậy, việc giảm đau sau phẫu thuật là điều cần thiết và quan trọng trong điều trị cứu chữa người đau sau phẫu thuật sẽ giúp bệnh nhân vận động sớm sau mổ, giúp nhanh chóng hồi phục, giảm thiểu được thời gian nằm viện và giảm chi phí điều trị bệnh. Bệnh nhân có thể nhanh chóng trở lại cuộc sống sinh hoạt ngày thường, đảm bảo chất lượng lao động và cuộc sống sau khi hồi phục của người bệnh. Đau sau phẫu thuật gây ức chế hệ miễn dịch của cơ thể 2. Đánh giá các mức độ đau sau phẫu thuật Không phải bệnh nhân nào cũng cảm thấy đau đớn sau mỗi cuộc phẫu thuật, tùy vào từng tình huống khác nhau, mức độ đau của mỗi người cũng sẽ khác nhau. Việc đánh giá được mức độ đau của bệnh nhân sẽ phần nào giúp bác sĩ đưa ra được phác đồ điều trị giảm đau sau mổ hiệu quả nhất đối với bệnh độ đau của mỗi bệnh nhân có thể thay đổi theo vị trí như phẫu thuật ngực và bụng trên đau hơn phẫu thuật bụng dưới, các phẫu thuật ngoại biên và phẫu thuật bề mặt được đánh giá là ít gây đau đớn nhất so với hai loại ra, mức độ đau sau phẫu thuật còn tùy thuộc vào cơ địa, sức chịu đựng, yếu tố tâm lý của mỗi bệnh nhân 15% bệnh nhân cảm thấy không đau hoặc đau ít sau mỗi cuộc phẫu thuật, 15% bệnh nhân khác sẽ cảm thấy vô cùng đau đớn sau mỗi cuộc phẫu thuật tương đánh giá mức độ đau đớn, bác sĩ thường sử dụng các dụng cụ như Thước EVA hoặc dùng thang điểm số để nhận biết mức độ đau. Thước EVA được sử dụng phổ biến nhằm đánh giá mức độ đau đớn 3. Các biến chứng sau phẫu thuật do quá đau đớn Đau đớn sau phẫu thuật nếu không được điều trị giảm đau kịp thời sẽ dẫn đến nhiều biến chứng nguy hiểm, thậm chí là tử vong. Đau đớn sau phẫu thuật gây ra các rối loạn ở nhiều cơ quan khác nhau như sauTim mạch Co mạch hệ thống hoặc co mạch vành, tăng huyết áp, dễ gây nhồi máu cơ tim hô hấp Hạn chế hô hấp làm tăng nguy cơ xẹp phổi, giảm thể tích phổi, viêm tiêu hóa Giảm thời gian làm rỗng dạ dày, giảm nhu động ruột. Bệnh nhân dễ chán ăn, có thể liệt ruột hoặc bị táo nội tiết Thay đổi phóng thích nhiều hormone, tăng đường huyết, giảm trọng lượng, tiêu cơ, hệ miễn dịch của người bệnh suy giảm và vết thương do phẫu thuật khó lành hơn. Đau sau phẫu thuật ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng giấc ngủ Hệ cơ xương khớp Co thắt cơ, ảnh hưởng đến khả năng hoạt động của người bệnh, yếu cơ và gây mệt mỏi kéo dài cho người sinh lý Đau đớn kéo dài cũng ảnh hưởng rất nhiều đến tâm lý của người bệnh. Họ luôn cảm thấy lo lắng, sợ hãi cơn đau, rối loạn giấc ngủ và gặp phải các hội chứng rối loạn sau chấn bài tiết Đau đớn gây giảm trương lực bàng quang và niệu đạo có thể dẫn đến bí tiểu. 4. Các phương pháp giảm đau sau phẫu thuật Điều trị giảm đau sau mổ là điều cần thiết phải thực hiện sau hầu hết các ca phẫu thuật. Tuy nhiên tùy vào mức độ đau của từng bệnh nhân, bác sĩ sẽ đưa ra phác đồ điều trị giảm đau sau mổ phù hợp nhất. Điều trị giảm đau sau phẫu thuật bằng đường uống Sau khi phẫu thuật xong, đối với những phẫu thuật nhỏ, ít đau, bác sĩ thường chỉ định sử dụng các thuốc giảm đau đường uống. Thuốc giảm đau đường uống được sử dụng đối với bệnh nhân phẫu thuật có thể ra về trong ngày hoặc ưu tiên sử dụng đối với bệnh nhân phục hồi nhu động giảm đau được sử dụng phổ biến nhất là paracetamol – thuốc có tác dụng giảm đau, hạ sốt, có thể sử dụng được cho mọi lứa tuổi. Các dòng thuốc giảm đau chống viêm không steroid sử dụng nhiều trong các phẫu thuật răng hàm mặt, phẫu thuật xương, phẫu thuật sản khoa. Các thuốc này có tác dụng giảm đau, chống sưng nề vết mổ nên thường đươc sử dụng rộng rãi sau mổ. Tuy nhiên, các thuốc giảm đau kháng viêm thường có tác dụng phụ gây viêm loét dạ dày, một số thuốc bị chống chỉ định trên bệnh nhân mắc bệnh tim mạch và trẻ em dưới 12 tuổi. Vì vậy, cần cân nhắc giữa lợi và hại trước khi sử dẫn chất có tác dụng giảm đau trung ương thường được phối hợp với paracetamol để tăng tác dụng giảm đau như codein, cafein, tramadol. Ngoài ra, Morphin đường uống chậm cũng là một trong những thuốc giảm đau thường được sử dụng trong điều trị giảm đau sau mổ. Điều trị giảm đau sau phẫu thuật sử dụng thuốc ngoài đường uống Giảm đau sau mổ sử dụng thuốc ngoài đường uống thông qua đường tĩnh mạch đối với các thuốc giảm đau không thuộc họ morphin như paracetamol và thuốc giảm đau kháng viêm không chứa steroid NSAID, có thể kết hợp sử dụng morphin trong trường hợp đau dụng các thuốc thuộc họ morphin Morphin, Fentanyl, Sufentanil, Remifentanyl đường truyền tĩnh mạch sử dụng kỹ thuật giảm đau bệnh nhân tự kiểm soát PCA, liều lượng thuốc được truyền đều đặn để đảm bảo giảm đau hoàn toàn, liên tục, người bệnh có thể tự bấm nút để bơm thêm một lượng thuốc đã được cài đặt sẵn để giảm đau ngay lúc thấy đau tăng lên. Phương pháp tiêm thuốc giảm đau vào bắp của bệnh nhân hiện không còn được khuyến khích sử dụng nữa vì gây đau và khối máu tụ sau tiêm cho bệnh nhân. Thuốc họ morphin bằng đường dưới da giúp điều trị giảm đau sau phẫu thuật Giảm đau bằng cách gây tê ngoài màng cứng Giảm đau bằng cách gây tê đám rối thần kinh, gây tê thân thần kinh, tê thần kinh ngoại vi như tê đám rối thần kinh cánh tay, tê thần kinh quay, thần kinh trụ, thần kinh ngồi, thần kinh đùi, thần kinh chày, thần kinh thẹn... Còn có các kỹ thuật gây tê vùng phức tạp đòi hỏi kỹ thuật cao như tê mặt phẳng cơ dựng sống để giảm đau trong các phẫu thuật vùng ngực, kể cả mổ tim hở, tê cơ thắt lưng chậu giảm đau vùng bụng dưới, tê cơ vuông thắt lưng giảm đau sau mổ đẻ và mổ vùng bụng dưới.... Gây tê vùng được thực hiện dưới hướng dẫn siêu âm và máy dò thần kinh đảm bảo chính xác, an toàn và hiệu quả Phương pháp gây tê ngoài màng cứng ngày càng được nhiều bác sĩ lựa chọn để điều trị giảm đau sau mổ cho bệnh nhân. Bằng cách lưu catheter ngoài màng cứng 48 đến 72 giờ, bác sĩ có thể truyền thuốc tê liên tục để giảm đau sau mổ kéo dài. Phương pháp này giảm đau hiệu quả hơn các phương pháp nêu trên, đặc biệt khi bệnh nhân ho, di chuyển hay vận động đều không gây đau đớn. Việc sử dụng các thuốc họ morphin để truyền ngoài màng cứng có thể gây tác dụng phụ như ngứa, buồn nôn, bí các phương pháp giảm đau trên, một số phương pháp khác cũng được bác sĩ sử dụng để điều trị giảm đau sau mổ cho bệnh nhân như dùng thuốc giảm đau đặt hậu môn, thuốc dán trên da, tiêm thuốc tê vào ổ khớp, đặt catheter truyền thuốc tê vào vết mổ ngay trước khi đóng vết mổ ... Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng. XEM THÊM Thuốc Agichymo điều trị bệnh gì? Tìm hiểu về thuốc Nevanac Làm thế nào để hạn chế Đau chi ma - cơn đau ảo? Dịch vụ từ Vinmec
Bài viết được tham vấn chuyên môn cùng Bác sĩ chuyên khoa I Nguyễn Đức Thông - Bác sĩ Gây mê hồi sức - Khoa Ngoại tổng hợp - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Đà Nẵng. Cảm giác đau sau khi mổ luôn là một trong những nỗi lo lắng của bất kỳ bệnh nhân nào. Ngày nay, với sự phát triển của nền y học hiện đại đã có nhiều phương pháp giúp điều trị đau sau mổ hiệu quả để giúp người bệnh giảm bớt được cơn đau cũng như nhanh chóng phục hồi hơn. 1. Đau sau mổ là gì? Đau sau mổ là cảm giác đau do cơ thể bị phẫu thuật can thiệp và thường xuất hiện sau khi mổ. Tùy thuộc và tính chất và mức độ phẫu thuật, kỹ thuật của đội ngũ y bác sĩ và khả năng chịu đựng của người bệnh mà mức độ đau sau mổ có thể khác nhau ở mỗi thường, các ca mổ sử dụng phương pháp nội soi thường ít gây cảm giác đau đớn hơn và thậm chí còn không đau. Trong những ca phẫu thuật nặng và phức tạp có thể gây đau liên tục sau mổ có thể gây đau mạn tính kéo dài sau mổ nhiều cạnh đó, mức độ đau sau mổ còn phụ thuộc vào một số yếu tố sauVị trí phẫu thuật Mức độ đau sau mổ giảm dần ở từng vị trí sau Phẫu thuật ngực và bụng trên, phẫu thuật bụng dưới, phẫu thuật ngoại biên và phẫu thuật bề mặt. Thời gian kéo dài cơn đau của từng vị trí cùng khác nhau, cụ thể là phẫu thuật ngực 4 ngày, phẫu thuật bụng trên 3 ngày, phẫu thuật bụng dưới 2 ngày, phẫu thuật bề mặt và phẫu thuật ngoại biên 1 ngày.Từng đối tượng bệnh nhân Theo nghiên cứu, có khoảng 15% bệnh nhân đau rất ít hoặc không đau, 15% bệnh nhân đau nhiều và các biện pháp điều trị đau sau mổ ít hiệu quả. 2. Các phương pháp đánh giá mức độ đau sau mổ Thước EVA EVA là tên viết tắt của Echelle Visuelle Analogue, là một loại thước dài 10cm có 2 mặt mặt có số và mặt không có số và được đóng kín 2 mặt không có số, 2 đầu thước được ghi lần lượt là “không đau” và “đau không chịu nổi”. Tương tự, mặt còn lại sẽ được đánh số chia vạch từ 0 – 100, trong đó 0 tương đương với “không đau” và 100 tương đương với “đau không chịu nổi”.Trên thước sẽ có một con trỏ có thể di chuyển được để có thể chỉ ra được mức độ đau mà bệnh nhân đang cảm nhận. Thường bệnh nhân sẽ được chỉ định dùng thuốc giảm đau sau mổ nếu giá trị đo được trên thước EVA từ 30 trở lên. Thước EVA đánh giá được mức độ đau sau mổ của bệnh nhân Thang điểm số Trong khoảng số từ 0 – 100 mức độ đau tăng dần bệnh nhân tự chọn một số tương ứng với mức độ đau mà mình cảm nhận được. Thang chia mức độ Ở phương pháp này, thang đo sẽ được chia thành 4 mức độ tăng dần, cụ thểMức độ 0 Không đauMức độ 1 Đau ítMức độ 2 Đau trung bìnhMức độ 3 Đau nhiều 3. Vai trò của điều trị đau sau mổ Điều trị đau sau mổ mang lại nhiều lợi ích cho bệnh nhân nhưGiúp bệnh nhân có cảm giác dễ chịu về mặt thể xác cũng như tinh thầnMang ý nghĩa nhân đạoGiúp cân bằng trạng thái tâm – sinh lý của người bệnh hậu phẫu thuậtHỗ trợ công tác điều trị hiệu quả hơn Thúc đẩy vết thương nhanh lành, giảm nguy cơ bội nhiễm vết thương, giảm nguy cơ tắc mạch, vận động sớm hơn và rút ngắn thời gian nằm việnGiúp người bệnh nhanh chóng phục hồi và có thể tự chăm sóc cho bản bệnh nhân có thể sớm tập phục hồi chức năngHạn chế nguy cơ tiến triển thành đau mạn tính. Điều trị đau sau mổ giúp bệnh nhân hạn chế bị đau mạn tính 4. Các phương pháp điều trị đau sau mổ Các phương pháp điều trị đau sau mổ được lựa chọn có thể khác nhau phụ thuộc vào nhiều yếu tố như vị trí đau, mức độ đau, tiền sử bệnh nhân,...Một số phương pháp điều trị đau sau mổ phổ biến làThuốc uống Cho người bệnh sử dụng các loại thuốc giảm đau sau mổ không thuộc họ morphine. Điều trị đau sau mổ bằng thuốc uống thường được áp dụng cho các bệnh nhân mẫu thuật về trong ngày. Người bệnh có thể uống paracetamol hoặc các loại thuốc kháng viêm không steroid NSAID hoặc kết hợp cả hai. Tuy nhiên, sử dụng NSAID có một số chống chỉ định trên bệnh nhân tim mạch, bệnh nhân viêm loét dạ dày...Do đó cần tuân theo chỉ định của bác ngoài đường uống Đối với đường dưới da thì sử dụng các loại thuốc thuộc họ morphine còn đường tĩnh mạch thì sử dụng thuốc giảm đau không thuộc họ morphine như NSAID hay paracetamol. Không nên tiêm đường bắp vì có thể gây ra tình trạng tụ máu do dùng thuốc chống đông sau phẫu Morphin dưới da hoặc đường tĩnh mạch thường có nhiều tác dụng phụ như ngứa, buồn nôn, nôn mửa, bí đái.. Hiện nay tại các cơ sở Vinmec không áp dụng tiêm Morphin để giảm đau sau thuốc qua catheter ngoài màng cứng Phương pháp điều trị đau sau mổ này có hiệu quả giảm đau tốt hơn so với việc tiêm tĩnh mạch hay đường dưới da. Sử dụng thuốc tê nồng độ thấp như Anaropin 0,08% phối hợp Fentanyl 1-2 mcg/mL truyền liên tục qua bơm tiêm điện, có thể điều chỉnh theo mức độ đau của NB và kéo dài trong 72 catheter gây tê đám rối thần kinh Phương pháp này thường được áp dụng ở chi. Bệnh nhân được đặt catheter bơm thuốc lặp lại hoặc liên tục nhằm kéo dài thời gian giảm đau hậu thuốc vào ổ khớp Sử dụng trong mổ nội soi khớp vai hay khớp gối. Thuốc thường được tiêm ở cuối ca phẫu thuật sau khi đã hút khô đường hậu môn Tuân thủ theo loại thuốc và liều dụng được bác sĩ chỉ định. Ví dụ Efferalgan, nay, thường áp dụng điều trị đau đa mô thức áp dụng từ 2 phương thức giảm đau trở lên nhằm kiểm soát tốt đau sau mổ giúp NB hồi phục nhanh sau mổ và tăng sự hài lòng. Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng. Kỹ thuật gây tê mặt phẳng cơ dựng sống ESP Giảm đau trọn vẹn, không cần morphin XEM THÊM Bệnh nhân tự kiểm soát cơn đau Thiền là gì? 12 lợi ích của thiền dựa trên khoa học CÁC THỤ CẢM ĐAU LÀ GÌ? VÌ SAO BẠN CÓ CẢM GIÁC ĐAU?
Thiên Vũ Góp ý chuyên môn DS. Nguyễn Thu Hương, Võ Thị Hà Giảm đau là một thành phần thiết yếu trong chăm sóc bệnh nhân sau các cuộc phẫu thuật; thúc đẩy sự hồi phục và cải thiện kết quả của bệnh nhân. Tuy nhiên thực tế là giảm đau sau mổ tại nhiều cơ sở khám chữa bệnh chưa được chú trọng đầy đủ do nhiều nguyên nhân khác nhau. Chuyên đề này tiếp cận giảm đau sau mổ dưới góc nhìn dược lâm sàng bao gồm các điểm chính Khái niệm, các yếu tố nguy cơ gây đau sau mổ; Các cơ chế gây đau sau mổ và nền tảng dược lý lâm sàng; Mục tiêu quản lý đau và các rào cản trên lâm sàng; Mô hình phát triển nhóm đa ngành và vai trò của dược sĩ lâm sàng trong quản lý đau ở bệnh nhân sau mổ. Đại cương về đau sau mổ Mở đầu về đau sau mổ Theo IASP 1979, đau được định nghĩa là một cảm giác và cảm xúc khó chịu liên quan đến một tổn thương mô thực thể hoặc tiềm ẩn. Đau mang tính cá nhân và được mô tả khác nhau bởi trãi nghiệm và cảm xúc của mỗi bệnh nhân [3]. Sau một đợt phẫu thuật, bệnh nhân thường phải đối mặc với những cơn đau cấp hoặc kéo dài, cùng với suy giảm chức năng các cơ quan. Đau sau mổ thường bắt đầu bởi một đợt đau cấp do tổn thương mô tại vị trí phẫu thuật xảy ra sau mổ [4]. Đợt đau cấp bắt đầu ngay sau đợt phẫu thuật trong vòng 7 ngày, và có thể được nối tiếp bởi các cơn đau mạn kéo dài đến 3 tháng sau đó [3]. Dịch tễ và các yếu tố nguy cơ Trên 80% bệnh nhân sau quá trình phẫu thuật trải qua cơn đau cấp và 75% những cơn đau này ở mức độ trung bình đến nặng. Tuy nhiên, các chứng cứ chỉ ra rằng dưới 50% bệnh nhân được điều trị giảm đau một cách thỏa đáng [5, 6]. Nghiên cứu của Vivian và cộng sự chỉ ra một số yếu tố nguy cơ liên quan đến đau sau mô gồm tuổi tác, loại phẫu thuật, tình trạng lo lắng về cuộc phẫu thuật [7]. Sau này, một tổng quan hệ thống gần đây phân tích rõ nét hơn 9 yếu tố trên bệnh nhân trước khi phẫu thuật có thể dẫn đến cơn đau cấp tiên lượng xấu ở bệnh nhân sau mổ tuổi trẻ em, giới nữ, hút thuốc lá, tiền sử có trầm cảm, lo âu, khó ngủ, thừa cân BMI cao, có các bệnh gây đau mạn tính trước khi mổ đau lưng, hội chứng ruột kích thích, hội chứng Raynaud, tiền sử bệnh thần kinh ngoại biên và/hoặc phải sử dụng thuốc giảm đau trước khi mổ, nhất là opioid kéo dài [8]. Cơn đau cấp có phát triển thành tình trạng đau mạn tính bao gồm những nguy cơ đã đề cập và có thể có thêm một trong các yếu tố nguy cơ yếu tố di truyền, lo lắng quá mức trước mổ, cuộc phẫu thuật lớn, quá trình phẫu thuật kéo dài,… Những yếu tố nguy cơ này nên được khai thác tiền sử trước khi tiến hành phẫu thuật để có định hướng kiểm soát cơn đau hợp lý sau mổ. Điều này cần thiết bởi đau sau mổ không chỉ là một triệu chứng, mà đó là nguyên nhân để tiến triển các rối loạn sinh lý – bệnh lý khác của bệnh nhân [9]. Cơ chế gây đau – nền tảng kiểm soát đau Về cơ bản, có hai cơ chế chính dẫn đến cơn đau của bệnh nhân, bao gồm kích thích thụ cảm thể đau, phần lớn liên quan đến viêm, và sự tổn thương tế bào thần kinh ở ngoại biên hoặc trung ương. Ở cơ chế thứ nhất, đau do kích thích nociceptive pain, các thao tác xâm lấn gây tổn thương mô tại vị trí mổ dẫn đến sự phóng thích các chất trung gian hóa học gây đau kinin, histamin, prostaglandin…, các chất này kích thích vào thụ thể đau nociceptor ở đầu tận cùng các dây thần kinh ở các mô đáp ứng. Các tín hiệu này truyền dọc theo sợi C chậm và sợi A-d Hình 1 đến sừng sau tủy sống. Tín hiệu đau sau đó truyền lên đồi thị và võ não. Tại vỏ não, các xung động dẫn truyền cảm giác được xử lý và lưu lại như các trãi nghiệm. Trong quá trình tín hiệu đau dẫn truyền từ vỏ não ra ngoại biên trên đường li tâm, các tín hiệu có thể bị suy giảm và ức chế một phần bởi các opioid nội sinh các enkephalin và b-endorphin, g-aminobutyric acid GABA, norepinephrin hoặc serotonin. Sự phong tỏa thụ thể N-methyl-D-aspartat NMDA receptor cũng góp phần làm tăng đáp ứng của các thuốc giảm đau trung ương trên thụ thể m [2, 3]. Ở cơ chế thứ hai, đau sau mổ cũng có thể xảy ra sau các tổn thương dọc theo sợi dẫn truyền cũng như rối loạn cơ chế điều chỉnh cảm giác đau ở thần kinh trung ương. Trường hợp này gọi là đau theo cơ chế thần kinh neuropathic pain. Rất nhiều chất dẫn truyền thần kinh và các chất khác, ví dụ như các cytokin IL-6, IL-8, IL-2β, tham gia vào cơ chế này [2]. Hình 1. Đường dẫn truyền cảm giác đau Nguồn pharmacotherapy Ngoài ra, bệnh nhân sau mổ có thể than phiền đau, nhưng là dạng đau do căn nguyên tâm lý psychogenic pain. Những trường hợp này thường mang yếu tố ám ảnh nhiều hơn cơn đau thực sự với những triệu chứng không điển hình. Bệnh nhân mô tả cơn đau kéo dài dường như không bao giờ chấm dứt mà không thể mô tả rõ ràng [2]. Dược điều trị trong kiểm soát cơn đau sau mổ Các cơn đau do cơ chế kích thích thụ cảm đau thường đáp ứng tốt với các thuốc giảm đau kháng viêm non-steroid NSAIDs và các opioid từ yếu đến mạnh. Tuy nhiên các cơn đau do thần kinh hoặc tâm lý đòi hỏi các cơ chế giảm đau đặc thù hơn và thậm chí là các liệu pháp về tâm lý [2]. Giảm đau sau mổ được khuyến cáo phối hợp các nhóm thuốc có cơ chế tác động khác nhau, gọi là giảm đau đa mô thức multimodal pain management, hay multimodal analgesia. Việc phối hợp giúp đạt hiệu quả giảm đau cao hơn, đồng thời giảm các tác dụng có hại so với dùng liều cao một thuốc giảm đau đơn lẻ. Bốn nhóm chính trong điều trị giảm đau, gồm các thuốc opioid mạnh morphin, pethidin, fentanyl các thuốc opioid yếu tramadol, codein các thuốc giảm đau không opioid paracetamol, NSAIDs chọn lọc và không chọn lọc các thuốc giảm đau phụ pregabalin, gabapentin, ketamin, clonidin. Nhóm giảm đau trung ương opioid Opioid được chỉ định cho tất cả các trường hợp đau sau mổ từ trung bình đến nặng và là cũng nhóm thuốc trung tâm trong giảm đau sau mổ. Hiện nay, đường tiêm tĩnh mạch IV các opioid như morphin, meperidin, fentanyl, hydromorphon được dùng phổ biến nhất trên lâm sàng gây mê hồi sức [10]. Một kỹ thuật mới hiện này là giảm đau tự kiểm soát bằng đường tĩnh mạch IV-PCA cũng là phương pháp được khuyến cáo là phương pháp ưu tiên. Phương pháp này giúp bệnh nhân tránh được việc dùng quá liều opioid, đồng thời làm tăng sự hài lòng và hợp tác của bệnh nhân [5, 11]. PCA có lợi ích tốt cho những bệnh nhân cần dùng liều giảm đau sau mổ thời gian hơn vài giờ. Trẻ 6 tuổi có thể thực hiện được thao tác này sau khi được hướng dẫn. Tuy nhiên, hiện nay kỹ thuật này chưa được triển khai phổ biến trong phần lớn các bệnh viện ở Việt Nam. Theo khuyến cáo của hiệp hội gây tê vùng và kiểm soát đau Hoa Kỳ ASRA 2016, nên ưu tiên các opioid đường uống so với đường tiêm tĩnh mạch IV trên những bệnh nhân có thể uống được [5]. Cần lưu ý tránh dùng đường tiêm bắp và tiêm truyền liên tục và các dạng thuốc phóng thích kéo dài morphin, oxycodon, hydromorphon dạng SR trong giảm đau ngay sau mổ [5]. Lưu ý, khi sử dụng opioid, cơn đau thường không được loại bỏ hoàn toàn, nhưng sự khó chịu do cơn đau gây ra có thuyên giảm. Bệnh nhân thường thấy mặc dù cơn đau của họ vẫn còn, nhưng nó không còn làm phiền họ nữa [2]. Các nhóm thuốc phối hợp với opioid trong giảm đau đa mô thức Sự phối hợp trong giảm đau đa mô thức cho phép giảm liều opioid so với dùng opioid đơn độc, từ đó giảm được các tác dụng phụ không mong muốn do opioid và làm giảm quá trình dung nạp thuốc. Các sự lựa chọn phối hợp với opioid đã được chứng minh an toàn và hiệu quả trong giảm đau sau mổ bao gồm Nefopam [13, 14]; Các NSAIDs diclofenac, ibuprofen, metamizol, celecoxib… [5, 15]; Pregabalin và gabapentin [5, 16, 17] Ketamin [5, 18] Clonidin [19] Lidocain [5] Đường dùng, liều dùng được khuyến cáo có lợi ích, các lưu ý khi sử dụng các thuốc và khuyến cáo phối hợp được trình bày ở Bảng 1 phần phụ lục. Gây tê vùng trong giảm đau sau mổ Phong bế thần kinh trung ương liên tục Continous Central Neuraxis Blockage, CCNB là một trong những biện pháp gây tê sau mổ có xâm lấn hiệu quả nhất và được sử dụng phổ biến trong các phẫu thuật lớn vùng bụng, lồng ngực khi các liệu pháp giảm đau đã đề cập kém đáp ứng. Có 2 dạng CCNB khác nhau gồm gây tê ngoài màng cứng và gây tê tủy sống [3]. Gây tê ngoài màng cứng tự điều chỉnh Patient-controlled epidural analgesia, PCEA là phương pháp rất hiệu quả trên thế giới những thập niên gần đây. Phương pháp này có thêm một số ưu điểm giảm biến chứng tim mạch, giúp bệnh nhân rút ngắn thời gian nằm viện, phục hồi sớm và giảm tử vong ở bệnh nhân ghép tạng. Tuy nhiên cần lưu ý rằng PCEA có một số tác dụng phụ tụt huyết áp, rối loạn hô hấp tuần hoàn do liều gây tê cao, đặc biệt ở người cao tuổi, hoặc ức chế vận động ở người trẻ [34]. Mặt khác, đối với các phẫu thuật khu trú hơn, phong bế thần kinh ngoại biên Continuous Peripheral Nerve Blockage, CPNB được chỉ định thay thế. Cả hai phương pháp đều góp phần giảm liều opioid để giảm đau sau mổ [3]. Trong CCNB và CPNB, các thuốc được sử dụng thường quy như các gây tê bupivacain, levobupivacain và ropivacain và các opioid như fentanyl … [3]. Hình 5. Gây tê cục bộ ngoài màng cứng nguồn internet Chiến lược giảm đau sau mổ Việc lựa chọn các liệu pháp giảm đau có thể cân nhắc dựa trên mức độ đau của bệnh nhân sau mổ theo Hình 3 và Bảng 2 phần phụ lục. PT phẫu thuật; NSAIDs thuốc giảm đau kháng viêm non-steroid; CCĐ chống chỉ định; IV tĩnh mạch Hình 3. Sơ đồ lựa chọn thuốc giảm đau theo mức độ đau [3] Hậu quả của việc không kiểm soát tốt cơn đau cấp Các rối loạn tâm lý – sinh lý liên quan đến cơn đau cấp Cơn đau cấp, bên cạnh có vai trò cảnh báo về tình trạng tổn thương mô, khi không được cải thiện có thể có một số tác động tiêu cực đến bệnh nhân, bao gồm các tác động về cả tâm lý và sinh lý. Về mặt tâm lý [3, 21] sự đau đớn có thể gây khó ngủ, lo âu, rối loạn cảm xúc, trầm cảm… Mặt khác các trải nghiệm về đau, về tâm lý, có thể gây tăng hoặc giảm cơn đau Về mặt sinh lý [3, 22] tác dộng về tim mạch tăng nhịp tim, tăng huyết áp tăng nhu cầu oxy có thể gây biến cố trên bệnh nhân bệnh mạch vành rối loạn nhu động ruột gây buồn nôn, táo bón rối loạn chức năng hô hấp suy hô hấp, viêm phổi, tăng tiết… rối loạn đông máu thuyên tắc huyết khối tiết niệu bí tiểu… Nguy cơ thúc đẩy cơn đau mạn tính Ngoài ra các cơn đau cấp sau mổ ở mức độ nặng cũng là yếu tố nguy cơ phát triển một tình trạng đau mạn tính kéo dài xem lại mục [3, 9]. Tất cả các ảnh hưởng trên góp phần tăng tỉ lệ tử vong, tàn phế, khó hồi phục lại sinh hoạt bình thường. Không những vậy, chi phí để kiểm soát cơn đau kéo dài thường cao hơn. Vì vậy, giảm đau sau mổ cần được quan tâm đúng mức để tránh những biến cố này [22]. Cải thiện cơn đau là nhu cầu cần được đáp ứng trên tất cả bệnh nhân sau mổ. Kiểm soát cơn đau sau mổ và vai trò của dược sĩ lâm sàng Mục tiêu kiểm soát cơn đau [3] Nâng cao chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân sau phẫu thuật Đẩy nhanh quá trình phục hồi chức năng các cơ quan Giảm các vấn đề bệnh tật Giúp bệnh nhân có thể xuất viện sớm Một số rào cản trong kiểm soát đau ở bệnh nhân sau mổ Có nhiều rào cản khác nhau trong việc kiểm soát các cơn đau cấp-mạn tính nói chung và ở bệnh nhân sau phẫu thuật nói riêng trong các cơ sở khám chữa bệnh. Những rào cản này có thể liên quan đến bản thân bệnh nhân, các nhân viên y tế. Một trong những rào cản phổ biến nhất đối với bác sĩ và điều dưỡng là thiếu kiến thức liên quan đến sử dụng opioid, bao gồm tính toán liều dùng và kiểm soát tác dụng phụ. Bên cạnh đó, sự thiếu thông tin và chưa được hướng dẫn đầy đủ cũng dẫn đến thiếu sự tuân thủ vào các hướng dẫn kiểm soát đau trong thực hành lâm sàng [23, 26]. Việc tập trung vào các biện pháp không dùng thuốc cũng là rào cản quan trọng trong kiểm soát đau sau mổ trên những người cao tuổi [25]. Ngoài ra, tại Việt Nam hiện nay, thiếu áp dụng các công cụ đánh giá cơn đau pain assessment tools là rào cản quan trọng trong quản lý cơn đau của bệnh nhân hiệu quả [24, 26]. Đánh giá cơn đau nhìn chung là khó và mang tính chủ quan qua lời khai của bệnh nhân, các thang điểm cường độ đau dạng số Numberical rating score, NRS từ 1–10, thang điểm cường độ đau dạng nhìn Visual Analog Scale– VAS và thang điểm khuôn mặt Wong – Backer faces được sử dụng thường quy tại một số quốc gia nhưng chưa phổ biến tại Việt Nam, trong đó thang điểm khuôn mặt chỉ ưu tiên dùng cho bệnh nhân giảm hoặc mất khả năng giao tiếp trên lâm sàng. Ưu và nhược điểm của các công cụ đánh giá này tham khảo tại ảng 3 phần phụ lục. Nguyên nhân của việc chưa áp dụng thường quy một phần được lí giải do không đủ thời gian, bởi tình trạng quá tải trong các bệnh hiện nay. Cũng vì tình trạng quá tải này, bệnh nhân và người chăm sóc bệnh nhân có thể chưa được tư vấn, giáo dục đúng mức về tình trạng sức khỏe và thảo luận về sử dụng thuốc giảm đau sau mổ [26]. Do thiếu giao tiếp, tình trạng đau của bệnh nhân chưa được phát hiện và quản lý thích hợp. Cần lưu ý khi khai thác tình trạng đau của bệnh nhân, bởi liên quan đến đau và việc sử dụng thuốc giảm đau, bệnh nhân có nhiều lo ngại [26] như Bệnh nhân “tốt” thường được mặc định là ít “than” đau nghỉ rằng việc than đau sẽ làm phiền nhân viên y tế, do đó họ có thể ngại trao đổi về cơn đau cùng với nhân viên y tế, hơn là với người nhà hay người chăm sóc. Lo ngại về tác dụng phụ của thuốc; Lo ngại về lệ thuộc thuốc; Phát triển mô hình đa ngành trong kiểm soát đau sau mổ Do tính phức tạp của cơn đau mãn tính, cả về góc độ tâm lý – thể chất – điều trị, không một ngành học nào có đủ chuyên môn để đánh giá và quản lý nó toàn diện một cách độc lập. Trong những thập niên gần đây, phương pháp tiếp cận nhóm đa ngành được coi là mô hình điều trị tối ưu cho hầu hết những người bị đau mãn tính ở trẻ em và người lớn. Cách tiếp cận này đảm bảo rằng các đánh giá và can thiệp được điều chỉnh cho phù hợp với nhu cầu của từng bệnh nhân, thay vì tập trung vào bệnh hoặc tình trạng cơ bản [27, 28]. Vai trò của dược sĩ lâm sàng trong nhóm đa ngành kiểm soát đau sau mổ Hổ trợ tư vấn, giáo dục và chăm sóc bệnh nhân Việc tư vấn, giáo dục bệnh nhân góp phần tích cực giúp bệnh nhân vượt qua những rào cản trong quản lý cơn đau sau mổ. Ngày càng nhiều các chứng cứ chỉ ra bệnh nhân được tư vấn có hiệu quả kiểm soát đau tốt hơn, giảm lo lắng và các tâm lí tiêu cực sau mổ, đồng thời giúp bệnh nhân hiểu được tính quan trọng của việc quản lý cơn đau và sử dụng thuốc giảm đau [5, 29]. Vai trò này tại Việt Nam hiện nay thường do điều dưỡng thực hiện, tuy nhiên do tình trạng quá tải tại các bệnh viện, nên thường chưa được quan tâm đúng mức. Tại một số quốc gia phát triển, quản lý đau ở bệnh nhân sau mổ được thực hiện bởi nhóm đa ngành. Tại phòng mổ, việc tư vấn do các bác sĩ hồi sức đóng vai trò chủ đạo. Tuy nhiên tại bệnh phòng, vai trò tư vấn, giáo dục liên quan đến thuốc giảm đau do các dược sĩ lâm sàng đảm trách. Dược sĩ lâm sàng cũng góp phần đánh giá liên tục hiệu quả giảm đau trên bệnh nhân đang phục hồi [30]. Quá trình này được thực hiện từ trước khi bệnh nhân phẫu thuật, cho đến sau vài tuần kể từ khi bệnh nhân xuất viện. Theo nghiên cứu của Coulson và cộng sự, bệnh nhân trước khi phẫu thuật được giới thiệu đến gặp dược sĩ lâm sàng để được tư vấn, giáo dục vấn đề liên quan đến cuộc phẫu thuật và phát triển kế hoạch chăm sóc giảm đau sau mổ cá thể hóa. Những bệnh nhân tham gia được theo dõi trực tiếp bởi dược sĩ lâm sàng trong thời gian tại bệnh viện, và sau khi xuất viện tiếp tục được phỏng vấn thông qua điện thoại để theo dõi hiệu quả giảm đau và giải quyết các vấn đề về thuốc. Kết quả cho thấy trên 90% bệnh nhân rất hài lòng dược sĩ nói chuyện với họ về kế hoạch kiểm soát cơn đau cả trước và sau khi xuất viện [31]. Ngoài ra, sự tham gia của dược sĩ lâm sàng được báo cáo vừa nâng cao chất lượng điều trị vừa làm giảm gánh nặng cho nhóm điều trị [30]. Tư vấn chuyên môn cho nhân viên y tế khác trong nhóm đa ngành Điểm mạnh nổi bật của dược sĩ lâm sàng trong nhóm điều trị đa ngành là sự am hiểu về dược lực học, dược động học và tiềm lực của các nhóm thuốc giảm đau, đặc biệt là opioid. Do đó dược sĩ đóng vai trò quan trọng trong việc lựa chọn liệu pháp giảm đau phù hợp đơn trị hay phối hợp đa mô thức; tính toán và tối ưu hóa liều điều trị của các opioid trên bệnh nhân để tư vấn cho nhóm điều trị, nhằm đảm bảo hiệu quả giảm đau nhưng đồng thời an toàn. Dược sĩ cũng có thể hướng dẫn chuyển đổi liều opioid theo các hướng dẫn hiện hành khi cần thiết bệnh nhân dung nạp, thuốc bị hết hàng…. Thêm vào đó, dược sĩ cũng được đào tạo để phát hiện, xử lý các vấn đề liên quan đến thuốc và đề xuất thời điểm dừng thuốc giảm đau trên bệnh nhân [23, 31]. Trên thực tế, lạm dụng và sử dụng không hợp lý opioid trong thời gian dài để giải quyết cơn đau cấp sau mổ là tình trạng phổ biến tại nhiều cơ sở khám chữa bệnh, có thể dẫn đến dung nạp, lệ thuộc thuốc, tăng gánh nặng về chi phí điều trị và độc tính do thuốc như nguy cơ quá liều hoặc ức chế hô hấp do opioid, OSORD nghiêm trọng. Tại Hoa Kỳ, số bệnh nhân tử vong do quá liều opioid năm 2015 tăng gấp 3 lần so với năm 2000 [32]. Dược sĩ có thể can thiệp trực tiếp giúp giảm kê toa opioid không phù hợp thông qua việc xem xét đơn thuốc và thử thuốc trong nước tiểu. Theo Boren và cộng sự, sự tham gia của dược sĩ lâm sàng vào nhóm liên ngành quản lý bệnh nhân điều trị opioid kéo dài góp phần giảm liều morphin sau năm lần khám bệnh trở lên, cải thiện tỉ lệ tuân thủ các hướng dẫn điều trị, tối ưu hóa điều trị bằng giảm đau đa mô thức và tham gia giáo dục bệnh nhân [33]. Kêt luận Quản lý đau sau mổ là một phần cần được quan tâm hiệu quả hơn trong chăm sóc giảm nhẹ, bao gồm cả tư vấn, giáo dục bệnh nhân, lên kế hoạch và thực hiện sử dụng thuốc giảm đau hợp lý. Hiện nay, giảm đau đa mô thức đang dần chứng minh được hiệu quả lâm sàng cải thiện hiệu quả giảm đau, đồng thời tránh sử dụng quá mức các thuốc giảm đau opioid nên giảm được chi phí điều trị, tính dung nạp và tác dụng không mong muốn. Do tính phức tạp trong quản lý đau, phát triển mô hình tiếp cận đa ngành là giải pháp tiềm năng trong tương lai. Trong đó dược sĩ lâm sàng là một mảnh ghép quan trọng trong thúc đẩy sử dụng thuốc giảm đau an toàn, hợp lý, hiệu quả và tối ưu hóa điều trị cho bệnh nhân. PHỤ LỤC Bảng 1. Hệ thống một số thuốc giảm đau và khuyến cáo khi sử dụng trên bệnh nhân đau sau mổ Nhóm Hoạt chất Đường Liều dùng Theo dõi Tác dụng phụ CCĐ TLTK Opioid mạnh Morphin IV 2-10mg/70kg cân nặng** Mức độ đau, an thần, nhịp thở, các tác dụng phụ Buồn nôn, nôn, an thần, giảm nhịp thở, ngưng thở khi ngủ, đái khó Suy gan nặng, dị ứng, suy hô hấp, phù phổi cấp, chấn thương não; bệnh nhân từ chối, nghiện ma túy [1], [3] IV PCA Bolus 1mg, liều sau tăng mỗi nấc 0,2-3mg, tiêm trong 6 phút IM* 5-10mg mỗi 3-4 giờ PO 10-30 mg mỗi 4 giờ PR 10-20mg mỗi 4g Fentanyl IV 50-100mg, nhắc lại sau 1-2 giờ nếu cần** Mức độ đau, an thần, nhịp thở, các tác dụng phụ Buồn nôn, nôn, an thần, giảm nhịp thở, ngưng thở khi ngủ, đái khó Suy hô hấp, bệnh nhược cơ, bệnh nhân từ chối, nghiện ma túy [1], [3] Opioid yếu Tramadol IV Khởi đầu 100mg, nối tiếp liều 50mg/20 phút cho tới khi đạt tổng 250mg; Sau đó 50-100mg mỗi 6 giờ Mức độ đau, an thần, nhịp thở, các tác dụng phụ Suy giảm hô hấp, táo bón, đau đầu, triệu chứng tâm thần, tăng huyết áp, đỏ bừng, hạ huyết áp tư thế… Suy hô hấp, suy gan, suy thận nặng, động kinh chưa kiểm soát, trẻ < 15t [1], [3] PO 50-100mg mỗi 6 giờ Codein PO 30mg mỗi 6 giờ Mức độ đau, an thần, tác dụng phụ Suy giảm hô hấp, táo bón, đau đầu Suy gan nặng, dị ứng, suy hô hấp, chấn thương não; hôn mê, có nguy cơ liệt ruột [1], [3] NSAIDs và paracetamol Ketorolac IV PO *** 3 x 30-40mg/ngày IV Mức độ đau, tác dụng phụ trên dạ dày, tim mạch, thận nhất là bệnh nhân cao tuổi có nhiều yếu tố nguy cơ Rối loạn tiêu hóa, gây viêm loét dạ dày … Xuất huyết tiêu hóa, xơ gan, suy tim, suy thận nặng, hen phế quản. Tránh dùng các NSAIDs có t1/2 dài trong đau cấp. [1], [3], [5] Diclofenac 2 x 75mg/ngày Ketoprofen 4 x 50mg/ngày Meloxicam 15mg/lần/ngày Celecoxib 200mg/ngày Thúc đẩy nhồi máu cơ tim ở bệnh nhân có tiền sử Xuất huyết, xơ gan, suy tim, suy thận, bệnh tim thiếu máu cục bộ, sau phẫu thuật mạch vành Paracetamol PO 4 x 1g paracetamol/ngày Mức độ đau Ít gặp Suy gan nặng Giảm đau phụ Pregabalin PO 150-300mg Mức độ đau, cân nặng, tình trạng phù, bệnh tim có sẵn Mệt mỏi, chóng mặt, buồn nôn, rối loạn tiêu hóa, nguy cơ viêm phổi, giảm bạch cầu… Mẫn cảm với thuốc [1], [3], [5] Gabapentin PO 600mg Mức độ đau, các triệu chứng tâm thần protein niệu + giả [1], [3], [5] Ketamin IV 0,15 – 2 mg/kg Mức độ đau, các triệu chứng tâm thần, trương lực cơ Gây tăng huyết áp, nhịp tim, tăng trương lực cơ, các rối loạn về tâm thần mê sảng, ác mộng, kích thích, ảo giác… Tăng huyết áp, bệnh tim nặng, tiền sử tai biến mạch máu não, sản giật hay tiền sản giật [1], [3], [5] Thuốc gây tê Lidocain IV liều nạp 1,5mg/kg, nối tiếp bởi liều 2mg/kg/h trong khi phẫu thuật Mức độ đau Hạ huyết áp, nhức đầu, kèm theo các rối loạn nhịp tim Rối loạn nhịp tim, suy tim nặng [1], [3], [5] Bupivacain IV Phong bế TKNB 5 ml dung dịch 0,25- 0,5% 25-50 mg, tối đa 150 mg. Gây tê ngoài màng cứng 10 – 20 ml dung dịch 0,25-0,75% 50 – 150 mg Mức độ đau, các triệu chứng tim mạch do bupivacain gây độc trên tim Hạ huyết áp, chậm nhịp tim khi gây tê tủy sống Rối loạn nhịp, sốc tim, không dùng bupivacain trong gây tế ngoài màng cứng và gây tê tủy sống người tụt huyết áp nặng * không khuyến khích; ** liều cần hiệu chỉnh dựa vào đáp ứng và mức độ dung nạp *** liều IV đầu tiên nên bắt đầu ngày tư 30-60 phút sau khi kết thúc phẫu thuật; liều uống ngay khi có thể Bảng 2. Hướng dẫn phối hợp tham khảo trong giảm đau sau mổ Nguồn Phác đồ Ngoại khoa BV Chợ Rẫy 2018, trang 1067-1068 Trường hợp Trước phẫu thuật Trong phẫu thuật Sau phẫu thuật Phẫu thuật đau ít PT cắt túi mật nội soi, PT cắt u xơ tử vung, PT tiết niệu nhỏ, PT mắt, PT cắt da qui đầu, PT thoát vị bẹn Lựa chọn một – Paracetamol IV 1-2g; – Ketoprofen PO/IV 50-100mg; – Ibuprofen PO 200-400mg – Diclofenac PO 50-100mg Gây tê vết mổ trước rạch da – Lidocain 1%, 10-20ml – Bupivacain 0,25-0,125%, 5-10ml – Hậu phẫu ngày 1 thuốc giảm đau PO dùng liều ngắt quãng Metamizon 500mg và/hoặc paracetamol 0,5-1g phối hợp với 1 trong các NSAID Ketoprofen 50mg/6-8h; Diclofenac 50mg/8h; Ibuprofen 400mg/8h và Meloxicam 7,5-15mg/24h. PT đau trung bình PT nội soi khoang màng bụng, mổ cắt ruột thừa, cắt túi mật nội soi, PT vú, PT vùng chậu, PT cắt thận Lựa chọn một – Gabapentin 600mg 1 viên/uống 4h trước phẫu thuật – Pregabalin 50-75 mg 1 viên/ uống 1h trước phẫu thuật Phối hợp cùng một – Lidocain 1,5mg/kg IV chậm trước khởi mê – Ketamin 50mg bolus IV trước khởi mê – Lidocain 1,5-3 mg/kg/h – Tê thấm vết phúc mạc, vết mổ trước đóng bụng bupivacain/ levobupivacain 2mg/kg robivacain 3mg/kg – Lidocain 1,5-3 mg/kg/h Tê thấm vết phúc mạc, vết mổ trước đóng bụng bupivacain/ levobupivacain 2mg/kg robivacain 3mg/kg PT đau nhiều các PT mổ mở Lựa chọn một – Paracetamol IV 1-2g; – Ketoprofen PO/IV 50-100mg; Uống – Ibuprofen 200-400mg – Diclofenac 50-100mg Phối hợp với – Lidocain 1,5mg/kg IV chậm trước gây mê – Ketamin 50mg bolus trước gây mê – Lidocain 1,5-3 mg/kg/h – Tê thấm vết phúc mạc, vết mổ trước đóng bụng bupivacain/ levobupivacain 2mg/kg robivacain 3mg/kg – Paracetamol + opioid + NSAID – Lidocain 0,5-1mg/kg/h – PCA – Giảm đau ngoài màng cứng liên tục với PCEA áp dụng đối với phẫu thuật theo chương trình Bảng 3. Các thang đo dùng để đánh giá đau [3, 35] Mô tả Lợi ích Hạn chế Hình ảnh minh họa Thang đánh giá qua nét mặt FRS Biểu đồ hình ảnh gồm 6 khuôn mặt vẽ gồm 6 biểu cảm từ hạnh phúc đến đau đớn Dễ hiểu, đặc biệt với trẻ em và người có vấn đề về giao tiếp Dễ gây nhầm lẫn giữa mức độ đau và tâm trạng vui buồn qua hình ảnh Thang đánh giá bằng số NRS Thang đo gồm 10 mức độ được đánh số từ 0 đến 10. Dễ hiểu, dễ sử dụng, cụ thể hơn thang nét mặt Trừu tượng hơn thang nét mặt. Thang đánh giá cường độ đau dạng nhìn VAS Thang đo là một dãi liên tục từ “không đau” ở một đầu và “đau nghiêm trọng” ở đầu kia Trực quản, dễ mô tả chính xác hơn, đặc biệt là theo dõi theo thời gian Không có nhãn, mô tả nên có thể gây khó khăn cho một số người có suy giảm về nhận thức Thang đánh giá bằng lời nói VRS Thang đo gồm các mức không đau, nhẹ, trung bình, nặng và rất nặng Dễ hiểu, dễ sử dụng Dễ đánh giá sai, kém nhạy hơn so với các thang NRS, VAS Ghi chú FRS facial rating scale; NRS number rating scale; VAS visual analog scale, VRS verbal rating scale Tài liệu tham khảo Bộ Y tế 2018, Dược thư Quốc gia Việt Nam DiPiro JT et al 2020. Pharmacotherapy A Pathophysiologic Approach, 11e. Pain management. Postoperative Pain Management–Good Clinical Practice 2016. European Society of Regional Anaesthesia and Pain Therapy. Jorgen Kehlet H. Postoperative pain and its management. In McMohan SB, Koltzenburg M, editors. Wall and Melzack’s Textbook of pain. 5th ed. Philadelphia Elsevier Churchill Livingstone; 2006. Chou R, Gordon DB, Leon-Casasola OA et al. Management of Postoperative Pain. A Clinical Practice Guideline. J Pain. 2016 Feb;172131-57. Gan TJ. Poorly controlled postoperative pain prevalence, consequences, and prevention. Journal of Pain Research 201710 2287–2298 Vivian HY, Abrishami A, Peng PWH et la. Predictors of Postoperative Pain and Analgesic Consumption A Qualitative Systematic Review. Anesthesiology September 2009, Vol. 111, 657–677. Yang MMH, Hartley RL, Leung AA et al. Preoperative predictors of poor acute postoperative pain control a systematic review and meta-analysis. BMJ Open 2019;9e025091 Schug A, Bruce J. Risk stratification for the development of chronic postsurgical pain. Garimella V, Cellini Postoperative Pain Control. Clin Colon Rectal Sep; 263 191–196. Li M, Li L, Xu Y et al. Intravenous analgesics for pain management in postoperative patients a comparative study of their efficacy and adverse effects. Tropical Journal of Pharmaceutical Research. August 2016; 15 8 1799-1806 Minkowitz H, Leiman D, Lu L et al. IV Tramadol – A New Treatment Option for Management of Post-Operative Pain in the US An Open-Label, Single-Arm, Safety Trial Including Various Types of Surgery. Journal of Pain Research 202013 1155–1162 Girard p. và cs., Nefopam analgesia and its role un multimodal analgesia a review of preclinical and clinical studies, Clin Exp Pharmacol Physiol, 2016. Evans MS, Lysakowski C, Tramèr MR. Nefopam for the prevention of postoperative pain quantitative systematic review. British Journal of Anaesthesia 2008; 101 5 610–617 Reuben SS and Buvanendran A. The Role of Preventive Multimodal Analgesia and Impact on Patient Outcome. Cambridge University Press. Eipe P, Penning J 2011. Postoperative Respiratory Depression Associated with Pregabalin A Case Series and a Preoperative Decision Algorithm. Pain Research & Management165353-356. Torres-González MI, Manzano-Moreno FJ et al. Preoperative oral pregabalin for anxiety control a systematic review. Clinical Oral Investigationsv24, 2219-2228 2020 Postoperative pain management in adults and children. Expert panel Guidelines 2009. Samantaray A et al. The effect on post-operative pain of intravenous clonidine given before induction of anaesthesia. Indian J Jul-Aug; 564 359–364. Oliveira GSD, Almeida MD et al 2011. Perioperative Single Dose Systemic Dexamethasone for Postoperative Pain A Meta-analysis of Randomized Controlled Trials. Anesthesiology, V 115. No 3 Kehlet H et al. Persistent postsurgical pain risk factors and prevention. Lancet. 2006 May 13;36795221618-25. Gan TJ. Poorly controlled postoperative pain prevalence, consequences, and prevention. Journal of Pain Research 201710 2287–2298 Mathew S et al. Impact of a Pharmacy-Led Pain Management Team on Adults in an academic Medical center. Hospital pharmacy 2016, 518 639-645. Phuong Hoang Vu , Duc Viet Tran, Yen Thi Le et al. Postoperative Pain Management among Registered Nurses in a Vietnamese Hospital. Scientific World 2020 6829153. Mędrzycka-Dąbrowska WA et al. Perception of barriers to postoperative pain management in elderly patients in Polish hospitals with and without a “Hospital Without Pain” Certificate – a multi-center study. Arch Med Sci 4, August / 2016. Zuccaro SM et al. Barriers to Pain Management Focus on Opioid Therapy. Clin Drug Investig 2012; 32 Suppl. 1 Ospina M, Harstall C. Multidisciplinary Pain Programs for Chronic Pain Evidence from Systematic Reviews. Task Force on Guidelines for Desirable Characteristics for Pain Treatment Facilities, IASP. Desirable characteristics for pain treatment facilities 2006. Ingadóttir B, Zoëga S 2017 Role of patient education in postoperative pain management. Nursing Standard. 32, 2, 50-61. Giannitrapani KF et al. Expanding the role of clinical pharmacists on interdisciplinary primary care teams for chronic pain and opioid management. BMC Family Practic 2018 19107. Genord C et al. Opiod exit plan A pharmacist’s role in managing acute postoperative pain. Cooney MF, Broglio K. Acute Pain Management in Opioid-tolerant Individuals. The Journal for Nurse Practitioners – JNP, Volume 13, Issue 6, June 2017. Boren LL et al. Team-Based Medicine Incorporating a Clinical Pharmacist into Pain and Opioid Practice Management. PM R 2019 Nov;11111170-1177 Koh JC, Song Y, Kim SY et al. Postoperative pain and patient-controlled epidural analgesia-related adverse effects in young and elderly patients a retrospective analysis of 2,435 patients. Journal of Pain Research 201710 897–904 Pain scale types Benefits and limitations. 2020 by Dr. Clemensz
Bài viết được viết bởi Bác sĩ chuyên khoa II Nguyễn Thị Hoài Nam - Trưởng Đơn nguyên Giảm đau, Khoa Gây mê phẫu thuật - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park. Phẫu thuật là 1 stress về cả tâm lý và thể chất cho người bệnh. Ngoài những lo lắng, bất an về chính căn bệnh của mình và kết quả của phẫu thuật, mối quan tâm hàng đầu của người bệnh là đau và giảm đau sau mổ. Để giúp người bệnh có thể chấp nhận và nhẹ nhàng vượt qua thử thách này, cần cung cấp cho họ những điều cần biết về đau và giảm đau sau mổ. 1. Phân loại đau Đau theo định nghĩa là một trải nghiệm cảm giác và cảm xúc khó chịu liên quan đến tổn thương mô thực tế hoặc tiềm năng, hoặc mô tả về thiệt hại loại đau Phân loại đau rất hữu ích trong việc đánh giá và điều trị. Có nhiều cách phân loại loại theo sinh lýNociceptive Đau do cảm thụ đau, biểu hiện đáp ứng bình thường của cơ thể khi mô bị chấn thương hay tổn thương như da, cơ, nội tạng, khớp, gân, Đau liên quan đến tổn thương nguyên phát hay bệnh lý hệ thần kinhInflammatory Đau do viêm ví dụ viêm ruột thừa, viêm khớp...Theo cường độ thường dùng thang điểm đau từ 0-10 trong đó 0 - không đau, 10 - đau không chịu đượcĐau nhẹ 0-4 điểmĐau vừa 5-6 điểmĐau nhiều 7-10 điểm Có nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra đau Theo thời gianĐau cấp tính Đau kéo dài dưới 3-6 thángĐau mạn tính Đau kéo dài trên 3-6 tháng, có thể là quá trình dai dẳng của đau cấp hoặc đau sau khi mổ đã lành vết thươngĐợt cấp của đau mạn tínhĐau sau mổ được coi là cơn đau cấp tính mà người bệnh cảm nhận được ngay khi hết tác dụng của thuốc tê hay thuốc mê được dùng trong mổ. Đó là sự phối hợp các cảm giác không dễ chịu về giác quan, cảm xúc và tâm thần kết hợp với các phản ứng tự động, nội tiết và biến dưỡng, tâm lý và hành vi đáp ứng với tổn thương ngoại khoa. Cơ chế của đau sau mổ phức tạp, đau do cảm thụ đau kết hợp do viêm, tạng và bệnh lý thần sau mổ có ghê gớm lắm không? Nếu không được đánh giá và điều trị đúng mức đây quả là vấn đề đáng sợ. Tuy nhiên đừng lo lắng, bác sĩ gây mê giảm đau sẽ luôn đồng hành cùng bạn để giảm thiểu tối đa cơn đau sau mổ. Việc điều trị đau được bắt đầu trước, trong và sau mổ. Khi thăm khám tiền mê trước mổ bác sĩ gây mê sẽ chuẩn bị tâm lý và dùng thuốc tiền mê theo phác loại phẫu thuật, bác sĩ sẽ chọn phương pháp gây tê hay gây mê nghĩa là sẽ dùng thuốc tê và/ hoặc thuốc mê đảm bảo khi mổ người bệnh sẽ không còn cảm giác đau và giảm hoặc mất ý thức. Các thuốc giảm đau cũng được dùng phối hợp trước khi cuộc mổ kết thúc nhằm ngăn chặn đau sau mổ. Ở phòng hồi tỉnh, người bệnh sẽ được theo dõi dấu hiệu sinh tồn và đánh giá mức độ đau định kỳ, qua đó sẽ được điều trị đau thích hợp. Điều trị đau sau mổ sẽ được duy trì đến khi xuất viện và đôi khi cả sau khi xuất viện. Người bệnh sẽ được theo dõi các dấu hiệu và chỉ số sinh tồn sau khi mổ 2. Vì sao phải điều trị đau sau mổ? Đau là cảm nhận chủ quan của mỗi người. Cùng 1 loại phẫu thuật cùng mức độ đau nhưng với người này có thể chỉ là đau nhẹ, người kia lại thấy đau vừa hoặc đau nhiều không chịu được, vì mỗi người có thể có một ngưỡng đau khác nhau. Do đó, việc đánh giá đau rất tinh tế và cần dựa vào nhiều yếu tố, thang điểm để có kết quả chính xác. Nếu đánh giá và điều trị đau không đúng mức sẽ dẫn đến nhiều hậu quả không tốt cho người bệnhMạch nhanh, huyết áp tăng dễ gây chảy máu, các tai biến về tim mạchĐau làm người bệnh không dám cử động, ho khạc và hít thở sâu dễ đưa đến suy hô hấp, xẹp phổi, viêm dám vận động sớm, tập vật lý trị liệu sau mổ đặc biệt sau mổ xương khớp sẽ làm hạn chế cử động, cứng khớp, teo cơ, ảnh hưởng đến kết quả phẫu thuật, tăng nguy cơ thuyên tắc mạchLàm mất ngủ, lo âu, trầm cảmNgười bệnh không thoải mái, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc thể dẫn đến đau mạn chế miễn dịch làm chậm lành vết mổ, chậm bình phục và tăng nguy cơ nhiễm khuẩn sau mổThời gian nằm viện kéo dài, tăng nguy cơ tái nhập viện, tăng chi phí điều trị Người bệnh cần được đánh mức độ đau chính xác 3. Điều trị đau sau mổ như thế nào để có thể giảm đau hiệu quả? Trước hết cần đánh giá đúng mức độ đau nhiều hay ít, tùy vào tình trạng của từng người bệnh để có kế hoạch điều trị thích hợp. Nguyên tắc chính của điều trị đau sau mổ có sự phối hợp của người bệnh, bác sĩ mổ và bác sĩ gây mê giảm nhân phải được tham gia vào kế hoạch điều trị. Nhân viên y tế nên nghe theo đánh giá của người bệnh về triệu chứng đau của sĩ mổ Áp dụng mổ nội soi, mổ đường mổ nhỏ nếu được để hạn chế tối đa tổn thương mô và thần kinh → giảm đau sau mổ cho người bệnhBác sĩ gây mê giảm đau hiểu và nắm rõ đặc điểm của từng người bệnh, đánh giá và điều trị đau đúng mức theo phác đồ, cập nhật và thực hiện tốt các kỹ thuật giảm đau, đặc biệt kỹ thuật gây tê vùng dưới hướng dẫn siêu hiện sớm và điều trị đau có kế hoạch Người bệnh phải được theo dõi thường quy về đau sau mổ để được điều trị nhanh chóng ngay sau khi được phát hiện đau. Lưu ý các yếu tố nguy cơ khi lập kế hoạch điều trị đau Các loại phẫu thuật gây đau gồm phẫu thuật ngực bụng, phẫu thuật ảnh hưởng nhiều đến cơ, xương và mô thần kinh, cấy ghép tủy xương, tuổi bệnh nhân, tiền sử đau bao gồm đau mạn tínhSử dụng phương pháp giảm đau đa mô thức dùng càng sớm càng tốt, có thể bắt đầu trước mổ, kết hợp kỹ thuật giảm đau vùng hoặc trung ương với nhiều loại thuốc giảm đau họ á phiện Opioid và không á phiện khác nhau nhằm tăng hiệu quả điều trị, giảm thiểu các tai biến và tác dụng phụ khi dùng 1 loại thuốc đơn hồ sơ đau của người bệnh và lộ trình điều trịĐánh giá và xem lại nhu cầu giảm đau của người bệnh 24 giờ trước khi xuất viện để kê toa dùng thuốc thích hợp. Giảm đau sau phẫu thuật giúp bệnh nhân có chất lượng cuộc sống tốt hơn, sớm hồi phục sau mổ Phác đồ giảm đau đa mô thức dựa trên mức độ đau+ Độ 1 Thuốc đường tiêm hoặc uống, phối hợp các thuốc giảm đau không á phiện Paracetamol, Kháng viêm không Steroid, Nefopam dùng trong đau nhẹ → trung bình+ Độ 2 Thuốc đường tiêm hoặc uống, phối hợp các thuốc giảm đau không á phiện với thuốc á phiện Tramadol, Nalbuphine, Morphine, Fentanyl... dùng trong đau trung bình → đau nhiều.+ Độ 3 Thuốc đường tiêm, uống, dưới daPhối hợp các thuốc giảm đau không á phiệnPhối hợp các thuốc giảm đau không á phiện và á phiệnGây tê vùng ngoài màng cứng, tê tủy sống, tê thần kinh ngoại biên, tê thấm vết mổ + á phiện tiêm, uống, dưới daGây tê vùng ngoài màng cứng, tê tủy sống, tê thần kinh ngoại biên, tê thấm vết mổ + á phiện + không á phiện tiêm, uốngGây tê vùng ngoài màng cứng, tê tủy sống, tê thần kinh ngoại biên, tê thấm vết mổ + không á phiện tiêm, uống Như vậy đau sau mổ không hề đáng sợ như suy nghĩ của nhiều người nếu được đánh giá và điều trị đúng. Người bệnh nếu được trang bị kiến thức về đau sau mổ, tham gia vào quá trình điều trị bằng cách phối hợp tốt với bác sĩ mổ và gây mê giảm đau sẽ mang lại hiệu quả giảm đau hệ thống Vinmec, với trang thiết bị hiện đại máy theo dõi chỉ số đau, máy siêu âm chuyên dụng cho gây tê vùng, máy kích thích thần kinh..., phác đồ điều trị cụ thể, luôn cập nhật các kỹ thuật mới về gây tê vùng, cung cấp cho người bệnh dịch vụ điều trị đau sau mổ tốt theo đúng mục tiêu “Bệnh viện không đau” Pain Free Hospital.Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec là một trong những bệnh viện không những đảm bảo chất lượng chuyên môn với đội ngũ y bác sĩ giàu kinh nghiệm, hệ thống trang thiết bị công nghệ hiện đại mà còn nổi bật với dịch vụ khám, tư vấn và chữa bệnh toàn diện, chuyên nghiệp; không gian khám chữa bệnh văn minh, lịch sự, an toàn và tiệt trùng tối hàng có thể trực tiếp đến hệ thống Y tế Vinmec trên toàn quốc để thăm khám hoặc liên hệ hotline tại đây để được hỗ trợ. Kỹ thuật gây tê mặt phẳng cơ dựng sống ESP Giảm đau trọn vẹn, không cần morphin XEM THÊM Cách giảm đau sau phẫu thuật tại Vinmec có gì đặc biệt? Vinmec và Hội đồng Gây tê Vùng Châu Á tổ chức Hội thảo Quốc tế về Gây tê vùng đầu tiên tại Việt Nam Hội thảo RA Asia 2019 Hơn 200 bác sĩ được trang bị kỹ năng thực hành kỹ thuật gây tê vùng
các phương pháp giảm đau sau mổ