Giáo trình Chẩn đoán bệnh động vật thủy sản được bố cục thành 5 chương. Chương 1: Khái quát về địa chính và bản đồ địa chính. Chương 2: Cơ sở toán học của bản đồ địa chính. Chương 3: Quy trình công nghệ thành lập bản đồ địa chính. Chương 4: Nội dung bản TÊN BÀI DẠY: DÂN SỐ Môn học/Hoạt động giáo dục: ĐỊA LÍ; Lớp: 7 Thời gian thực hiện: (1 tiết) Nội dung kiến thức: - Hình thành khái niệm địa lí: Dân số và nguồn lao động. I. MỤC TIÊU 1. Kiến thức Yêu cầu cần đạt: - Đọc được biểu đồ quy mô dân số thế giới. - Trình bày được quá trình phát Giáo trình biên soạn với khối lượng giảng dạy 4 đơn vị học trình (60 tiết) bao gồm 2 phần : Phần I: Cơ sở lý luận chung về bản đồ học Bài mở đầu Chương 1 : Những khái niệm cơ bản về bản đồ học Ch ương 2 : Cơ sở toán học của bản đồ Chương 3 : Các phép Lời giới thiệu Giáo Trình Quản trị học. Quản trị học là một trong những môn học nhằm cung cấp kiến thức cơ bản về quản trị một tổ chức. Do tầm quan trọng của quản trị nên kiến thức về quản trị ngày càng được chú trọng đào tạo trong các trường đại học Trang chủ » Tự học tiếng Trung | Bài 15 | Phần 2 | Giáo trình Phần 2 | Giáo trình Hán Ngữ 2 | Phiên Bản 2021 | Tái bản Leave a comment on Tự học tiếng Trung | Bài 15 | Phần 2 | Giáo trình Hán Ngữ 2 Gợi ý dành cho bạn. học tiếng trung mỗi ngày. học tiếng Trung. Sơ đồ tư duy Vay Tiền Trả Góp 24 Tháng. BẢN ĐỒ HỌCLỜI NÓI ĐẦUTrong mọi thời đại, bản đồ luôn giữ một vai trò quan trọng trong tất cả mọilĩnh vực của cuộc sống. Vì vậy, việc học tập và nghiên cứu lĩnh vực khoa học kỹthuật về bản đồ là hết sức cần thiết. Nhằm phù hợp với chương trình giảng dạymới, phục vụ học tập và nghiên cứu, nâng cao chất lượng đào tạo sinh viên trongcác trường đại học, chúng tôi đã biên soạn cuốn giáo trình “Bản đồ học”.Giáo trình gồm 7 chương với các nội dung chính Chương 1 Tổng quan về bản đồ học Chương 2 Lý thuyết chung về phép chiếu bản đồ Chương 3 Tổ chức thành lập và tổng quát hoá bản đồ Chương 4 Phân loại các bản đồ và tập bản đồ Chương 5 Các phương pháp thành lập, hiệu chỉnh bản đồ Chương 6 Thiết kế biên tập và thành lập bản đồ Chương 7 Sử dụng bản đồ Giáo trình này nhằm phục vụ sinh viên ngành bản đồ và các ngành học khác có liên quan, quan tâm tới công nghệ sản xuất bản quá trình biên soạn, chúng tôi đã cố gắng diễn đạt xúc tích, cập nhật những thông tin mới, những thay đổi liên quan tới lĩnh vực bản đồ do Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành. Song do thời gian và khả năng có hạn nên cuốn sách vẫn không thể tránh khỏi những sai sót. Rất mong được sự góp ý của các đồng nghiệp và bạn đọc để cuốn sách này được hoàn chỉnh hơn trong đợt tái bản lần chân thành cảm ơn! Tác giảTÀI LIỆU THAMKHẢO...........................................................CHƯƠNG 1TỔNG QUAN VỀ BẢN ĐỒ HỌC1. Đối tượng và nhiệm vụ của bản đồBản đồ học là lĩnh vực khoa học kỹ thuật về bản đồ, về các tính chất, phương pháp thành lập và sử dụng bản tượng nhận thức của bản đồ học là không gian cụ thể của các đối tượng, hiện tượng thực tế khách quan và những biến đổi của chúng theo thời đồ học bao gồm các vấn đề rộng lớn về bản chất và phương pháp truyền đạt thể hiện các thông tin về tự nhiên và xã hội của bề mặt khu vực bản đồ thể hiện. Rất nhiều ngành khoa học kỹ thuật có liên quan và cần sử dụng bản đồ. Bản đồ rất cần cho sự phát triển kinh tế quốc dân, cho tìm kiếm và quản lý tài nguyên, khoáng sản, cho thiết kế các công trình công, nông nghiệp, cho quy hoạch, quản lý đất đai,...Hiện nay bản đồ là tài liệu quan trọng để giải quyết các nhiệm vụ khoa học kỹ thuật, là phương pháp thể hiện thông tin trong hệ thống thông tin địa lý của mỗi khu vực và quốc đồ học bao gồm nhiều bộ môn khoa học kỹ thuật có quan hệ chặt chẽ với nhau, nhưng mỗi bộ môn lại có chức năng riêng Cơ sở lý thuyết của bản đồ bản đồ học đại cương Nghiên cứu bản đồ các loại, tính chất và các yếu tố của bản đồ, khả năng sử dụng các bản đồ trong thực tế, lịch sử phát triển của bản đồ học. Toán bản đồ Nghiên cứu các phương pháp chiếu bề mặt toán học elipxôit hoặc mặt cầu của trái đất lên mặt phẳng, các tính chất, các phương pháp đánh giá và lựa chọn các phép chiếu bản đồ và các yếu tố khác thuộc cơ sở toán học của bản đồ. Thiết kế và thành lập bản đồ Đó là một trong những bộ môn quan trọng nhất của bản đồ học. Nó nghiên cứu và xây dựng lý thuyết tổng quát hoá bản đồ, công nghệ thiết kế bản đồ, các nguyên tắc biên tập và thành lập bản đồ bằng phương pháp trong phòng. 1. Định nghĩa và tính chất bản đồ a. Định nghĩaBản đồ là sự biểu thị khái quát, thu nhỏ bề mặt trái đất hoặc bề mặt của thiên thể khác trên mặt phẳng trong một phép chiếu xác định, nội dung của bản đồ được biểu thị bằng hệ thống ký hiệu quy ước. Đó chính là định nghĩa chung về bản bản đồ đều được xây dựng theo một quy luật toán học nhất định. Quy luật toán học của bản đồ trước hết được biểu hiện ở tỷ lệ và phép chiếu của đối tượng và hiện tượng tức là nội dung của bản đồ được biểu thị theo một phương pháp lựa chọn và khái quát nhất định tổng quát hoá bản đồ. Tổng quát hoá bản đồ thì phụ thuộc vào mục đích của bản đồ, tỷ lệ bản đồ và đặc điểm địa lý của lãnh đối tượng và hiện tượng được biểu thị bằng ngôn ngữ của bản đồ - đó là hệ thống các ký hiệu quy sở toán học của bản đồ, sự tổng quát hóa các yếu tố nội dung và sự thể hiện các đối tượng và hiện tượng bằng các ký hiệu bản đồ - đó chính là ba đặc tính cơ bản phân biệt giữa bản đồ với các hình thức khác biểu thị bề mặt trái Các tính chất cơ bản của bản đồBản đồ có những tính chất cơ bản là tính trực quan, tính đo được và thông Tính trực quan của bản đồ Được biểu hiện ở chỗ là bản đồ cho ta khả năng bao quát và tiếp thu nhanh chóng những yếu tố chủ yếu và quan trọng nhất của nội dung bản đồ. Một trong những tính chất ưu việt của bản đồ là khả năng bao quát, biến cái không nhìn thấy thành cái nhìn thấy được. Bản đồ tạo ra mô hình trực quan của lãnh thổ, nó phản ánh các tri thức về các đối tượng hoặc các hiện tượng được biểu thị. Bằng bản đồ, người sử dụng có thể tìm ra đựơc những quy luật của sự phân bố các đối tượng và hiện tượng trên bề mặt trái Tính đo được Đó là tính chất quan trọng của bản đồ. Tính chất này có liên quan chặt chẽ với cơ sở toán học của nó. Căn cứ vào tỷ lệ và phép chiếu của bản đồ, căn cứ vào các thang bậc của các ký hiệu quy ước, người ta sử dụng bản đồ có khả năng xác định được rất nhiều các trị số khác nhau như toạ độ, biên độ, độ dài, khoảng cách, diện tích, thể tích, góc, phương hướng và nhiều trị số do có tinh chất này mà bản đồ được dùng làm cơ sở để xây dựng các mô hình toán học của các hiện tượng địa lý và để giải quyết nhiều vấn đề khoa học và thực tiễn sản Tính thông tin của bản đồ Đó là khả năng lưu trữ và truyền đạt cho người đọc những tin tức khác nhau về các đối tượng và các hiện Phân loại bản đồĐể tiện lợi trong việc nghiên cứu, sử dụng và bảo quản các bản đồ thì cần thiết phải tiến hành phân loại chúng. Có nhiều cách phân loại khác nhau. Trong đó, một số cách phân loại sau đây thường được sử dụng và cũng là quan trọng nhất. Phân loại theo các đối tượng thể hiện Các bản đồ được phân thành 2 nhóm Các bản đồ địa lý và các bản đồ thiên văn. - Phân loại theo nội dung Bản đồ được phân thành 2 nhóm đó là Các bản đồ địa lý chung và các bản đồ chuyên mỗi cách phân loại kể trên, tuỳ thuộc vào nhóm các bản đồ cụ thể người ta còn có cách phân loại chi tiết Phân loại theo tỷ lệ Các bản đồ địa lý được chia thành ba loại Tỷ lệ lớn, tỷ lệ trung bình và tỷ lệ nhỏ. - Phân loại theo mục đích sử dụng Cho đến nay, theo mục đích sử dụng chưa có sự phân loại chặt chẽ. Bởi vì đại đa số các bản đồ được sử dụng rộng rãi cho nhiều mục đích rất khác nhau. Song đáng chú ý nhất theo mục đích sử dụng có thể phân ra thành 2 nhóm, đó là Các bản đồ sử dụng cho nhiều mục đích và các bản đồ chuyên được bắt đầu từ việc dựng lưới toạ độ và khi sử dụng bản đồ thì mạng lưới toạ độ chính là cơ sở tiến hành những đo đạc khác nhau trên bản lưới các điểm trắc địa bảo đảm cho việc chuyển từ bề mặt tự nhiên của mặt đất lên bề mặt elipxoit và đảm bảo cho việc xác định vị trí chính xác của các yếu tố địa lý của bản đồ so với mạng lưới toạ độ, mạng lưới trắc địa thường được thể hiện trên các bản đồ địa ra, bố cục bản đồ bao gồm khung bản đồ, sự định hướng và bố trí lãnh thổ bản đồ trong khung, sự phân mảnh đánh số bản đồ cũng là các yếu tố cơ sở toán học của bản Các yếu tố hỗ trợ bản đồNgoài các yếu tố nội dung và các yếu tố cơ sở toán học thì bản đồ còn có yếu tố hỗ trợ bao gồm bảng chú giải, thước tỷ lệ và các đồ thị. Bảng chú giải là "chìa khoá" để người đọc tìm hiểu và khám phá nội dung bản đồ. Bảng chú giải là bảng ký hiệu có kèm theo lời giải thích ngắn gọn. Thước tỷ lệ và các đồ thị được sử dụng trong quá trình đo đạc trên bản đồ để nhanh chóng xác định được các trị số cần thiết. Các yếu tố hỗ trợ còn thể hiện ở những khoảng trống bên ngoài hoặc trong khung bản đồ bởi các bản đồ phụ, các biểu đồ, đồ thị, các lát cắt, các bảng thống kê, v... nhằm mục đích bổ sung, làm sáng tỏ và làm phong phú thêm về những phương diện nào đó của nội dung bản đồ. Ngoài ra, bố cục bản đồ bao gồm khung bản đồ, sự định hướng và sự bố trí lãnh thổ bản đồ trong khung, sự phân chia các bản đồ có kích thước lớn thành các mảnh và hệ thống đánh số các mảnh đó cũng là các yếu tố cơ sở toán học của bản Lược sử phát triển của bản đồ họcBản đồ ra đời do nhu cầu của cuộc sống xã hội loài người và bản đồ đã phản ánh thực tế khách quan của thiên nhiên và đời sống xã hội. Chính vì vậy bản đồ là sản phẩm văn hoá quý giá nhất nhì của nền văn minh nhân hiểu lịch sử phát triển của bản đồ học là tìm hiểu quá trình phát triển của các loại bản đồ, của công nghệ và phương pháp thành lập cũng như sự phát triển của tư tưởng và lý luận của khoa học bản đồ. Tìm hiểu lịch sử bản đồ học là giúp ta hiểu đúng nhiệm vụ và vị trí của bản đồ học hiện nay để định hướng tốt hơn, chính xác hơn viễn cảnh phát triển của bộ môn khoa học này trong tương hội phát triển, nhu cầu ngày càng tăng của xã hội luôn là điều kiện làm xuất hiện các bản đồ địa lý mới, làm đa dạng phong phú thêm các dạng, loại bản đồ. Khi xuất hiện các chủ đề mới, kiểu loại mới bản đồ, đồng thời cũng đặt ra những vấn đề mới về lý luận, cơ sở khoa học mới cho bản đồ học và nó là điều kiện để hoàn thiện và phát triển các thể loại bản cứu sự phát triển của bản đồ học chúng ta được biết các thành tựu khoa học cùng các tên tuổi của các nhà khoa học đã có nhiều cống hiến cho sự phát triển của bản đồ sử của bản đồ học có thể chia ra bốn thời kỳ gắn liền với lịch sử thế giới. Đó là - Thời kỳ cổ đại - Thời kỳ trung cổ. - Thời kỳ cận đại. - Thời kỳ hiện Bản đồ học thời cổ đạiKhi khai quật các công trình cổ đại, người ta tìm thấy các hình vẽ thô sơ về hệ thống tưới tiêu, sơ đồ thành phố... ở Ấn Độ, Tây Á, Trung Đông, Trung Quốc, Bắc Mỹ... Điều này đã khẳng định con người cổ xưa đã có những tri thức bản đồ đáng góp đáng kể cho sự phát triển bản đồ học thời kỳ này là ở cổ Hy Lạp. Họ đã biết về thiên văn học, toán học, biết hình dạng của trái đất và kích thước của nó. Đặc biệt trên các bản vẽ họ đã dùng hệ thống toạ độ địa lý. Đó là bước tiến quan trọng trong bản đồ phẩm nổi tiếng nhất của thời kỳ cổ đại là 8 tập địa lý học Geographie hyesis của Kôlêmê Ptoléme ở những năm 87-150 nhưng đến tận thế kỷ 15 mới được dịch ra tiếng Latinh và in năm kỳ cổ La Mã, việc sử dụng bản đồ để đáp ứng nhu cầu của thực tế, phục vụ hoạt động quân sự và hành chính nên bản đồ phổ biến là các bản đồ đường sá La Mã ở dạng cuộn thành ống dài gần 7m, rộng khoảng 1/3 m rất thuận tiện cho sử dụng và di chuyển. Những người đo đạc đất đai ở La Mã cổ đại cũng đã biết đo đạc chia đất đai thành làng mạc, đường Sá và quy hoạch ruộng trung tâm khoa học lớn ở thời kỳ cổ đại là Alexanđri ở Bắc Ai Cập với những viện bảo tàng và thư viện cổ là minh chứng cho biết nhà địa lý học lỗi lạc Eratoxfen là người đầu tiên xác định phương pháp đo góc kinh tuyến để xác định kích thước trái đất, ông đã xác định gần đúng chiều dài của kinh tuyến và coi nhiệm vụ của địa lý là phải vẽ hình dạng của Trái kỳ cổ đại, Trung Quốc đã là một trung tâm văn minh của thế giới kể cả lĩnh vực bản đồ các tài liệu của Tây Âu và các sử sách truyền lại thì thường gặp các bản đồ, địa đồ với trình độ thành lập khá cao và chính đáng chú ý ở các bản đồ này là ngoài các hình vẽ phối cảnh thông thường người ta đã biết sử dụng các ký hiệu quy ước, ghi chú cho bản đồ. Nổi bật nhất của Trung Quốc ở thế kỷ thứ III là nhà bản đồ xuất sắc Bùi Tú 223- 271. Người đã thành lập ra tập Atlát gồm 18 bản đồ vùng, trong đó ghi rõ phương pháp biên vẽ bản đồ, chọn tỷ lệ, sử dụng lưới ô vuông để phân bố các đối tượng bản đồ, để xác định độ dài đường cong, định hướng đúng cho các con sông, dãy núi. Ông còn lập ra tấm bản đồ tổng thể Trung Quốc tỷ lệ khoảng 1/ Bản đồ học thời trung cổ Thế kỷ V đến XVIIĐây là thời kỳ đình đốn của bản đồ học do sự thống trị của nhà thờ. Những công trình khoa học của các nhà bác học cổ đã bị phá huỷ bởi nhữngngọn lửa của những người cuồng tín. Những công trình của Eratôxphen, Kôlêmê..v.. cùng chung số phận. Một số nhà bác học cổ như Brunô bị thiêu sống, một số người khác bị cầm tù như Galilê. Tuy vậy, nhiều nhà bác học thời bấy giờ đã không hề run sợ trước những ngọn lửa, những hầm tối. Họ tiếp tục sự nghiệp của mình ngay trong khi giam cầm và ngay trước giàn lửa Bản đồ học thời cận đại nửa cuối thế kỷ XVII và thế kỉ XVIIIChính sự phát triển của các quan hệ sản xuất tư bản ở các nước Tây Âu đã tạo ra sự phát triển mạnh hơn của bản đồ học. Nhu cầu bản đồ chính xác về một khu vực rộng lớn, thế giới đòi hỏi cần có các phương pháp mới, và các biện pháp thích hợp để xử lý nguồn tư trung tâm hoạt động về lĩnh vực bản đồ đã chuyển về các viện hàn lâm khoa học Pháp Pari 1666, Đức Berlin 1700, Nga Pêtécbua 1724...Vào đầu thế kỉ XVIII, Pháp trở thành nước đi đầu trong đo vẽ địa hình đất nước. Họ đã đo vẽ địa hình trên cơ sở lưới tam giác trắc địa do các thế hệ nhà Cassini thiết 1789 có 182 mảnh bản đồ địa hình Quốc gia của nước Pháp đã được hoàn Anh, trong điều kiện tăng nhanh nhu cầu bản đồ phục vụ cho đi biển buôn bán và tìm kiếm thuộc địa, các loại bản đồ biển, địa lí cũng rất phát triển. Để giúp dễ dàng xác định được kinh tuyến trên biển, năm 1675 người ta đã thiết lập ra đài thiên văn Greenwich ở ngoại ô Luân vào các tư liệu về độ lệch từ tính, thuỷ chiều, gió,... nhà thiên văn học người Anh tên là Edward Halley 1656-1742 đã thành lập các bản đồ địa lí tự nhiên về sức gió 1688, bản đồ độ đẳng từ khuynh 1701.d. Bản đồ học thời hiện đạiTrong thế kỷ XVIII và XIX, bản đồ địa lý dùng cho quân sự đã có nhiều hạn chế, quân đội có nhu cầu lớn về bản đồ địa hình. Các cơ quan quân sự vềXã hội phát triển, nhu cầu sử dụng bản đồ trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội tăng lên rất nhanh về số lượng và chất lượng đòi hỏi có các loại bản đồ riêng khác với Bản đồ địa lý chung. Nội dung của bản đồ chuyên đề là đáp ứng yêu cầu cụ thể của một ngành, lĩnh vực nào đó trong xã bản đồ chuyên ngành xuất hiện rất sớm, song cùng với sự phát triển của Bản đồ học thì vào cuối thế kỷ XIX và thế kỷ XX, Bản đồ chuyên đề mới phát triển mạnh, đa dạng phong phú về thể loại, nhiều phương pháp và phương tiện mới để thể hiện nội dung bản đồ đã được áp thuộc vào điều kiện lịch sử và mục tiêu kinh tế, phát triển trong từng thời kỳ của mỗi nước, mỗi quốc gia, người ta thành lập các cơ quan chức năng chuyên môn sâu về Bản đồ học và còn thành lập các cơ sở đào tạo chính quy và các viện nghiên đặc điểm quan trọng của Bản đồ học hiện đại là nhờ các thành tựu của khoa học kỹ thuật chụp ảnh hàng không, ảnh vệ tinh, đo vẽ xử lý ảnh, in ốp xét nhiều màu, công nghệ vật liệu mới, tách màu điện tử, điện tử - tin học,... mà công việc đo vẽ và xây dựng bản đồ nhanh chóng chính xác, có nhiều thể loại mang tính toàn cầu và vượt ra ngoài trái đồ học phát triển và thành công rực rỡ làm cơ sở cho phát triển của các ngành kinh tế - xã hội, làm cho mối liên hệ, quan hệ của các lĩnh vực xã hội chặt chẽ và gần nhau hơn, thúc đẩy xã hội loài người tiến lên không đồ học phát triển tạo ra các công nghệ mới cho sản xuất và sử dụng bản đồ, cho phép các nhà khoa học bản đồ xây dựng một tư duy mới, một cách nhìn nhận mới đối với bản đồ học và các sản phẩm, ứng dụng của Sơ lược lịch sử phát triển Bản đồ học ở Việt NamLịch sử đo vẽ và phát triển Bản đồ học ở nước ta cho đến nay chưa có tài liệu chính nào được công bố. Có một số công trình nghiên cứu có đề cập tới nhưng chưa toàn diện và hệ thống. Do đó, đây chỉ là sơ bản đồ của Ptôlêmê khu vực Đông Dương được vẽ như một bán đảo lớn. Năm 43 sau CN, ở nước ta đã tiến hành dựng cột mốc đồng dọc biên giới và năm 724 đã đo vẽ bản đồ để đắp cao hệ thống đê phòng thủ Đại 1280 đã dùng đơn vị đo là Thước 1 thước = 0. Cho đến thế kỷ XV theo các tư liệu nước ngoài thì trên bản đồ bán đảo Đông Dương chưa được thể hiện hoặc còn sai quá 1650 nhà truyền giáo Alexan Đrốt cho ra bản đồ “Vương quốc An Nam” với các tỉnh phía Bắc và các tỉnh phía Nam tương đối đúng. Bản đồ hàng hải của PeterGur cũng vẽ tương đối đúng bờ biển nước cơ sở lý luận, ở nước ta có nhà bác học Lê Quý Đôn 1726 – 1783 có đề cập đến pho sách “Kho hiểu biết quý giá” 9 tập, đặc biệt là trong 3 tập với các tiêu đề Vũ trụ học, Địa lý học và Bản đồ học. Cho đến nay ta còn giữ được hai bản đồ quý là Bản đồ Hồng Đức và Bản đồ Hà Nội thế kỷ thế kỷ XVIII, các giám mục phương Tây cùng với các sĩ quan Pháp đã nhiều đợt đến lãnh thổ nước ta, thực chất là chuẩn bị điều kiện xâm chiếm nước ta làm thuộc địa. Kết quả các đợt thám sát đó là các bản đồ hàng hải Nam Kỳ in ở Pháp năm 1818. Các năm tiếp theo, các hạm đội của Anh và Pháp liên tiếp đo vẽ bờ biển Đông Dương. Năm 1838 giám mục Tabe đã xuất bản “Bản đồ địa lý đế quốc An Nam”. Đến thời kỳ đó, thực dân Pháp đã chiếm xong miền Nam nước ta 1838.Năm 1872 – 1873, thuyền trưởng Brigen đã xuất bản 20 mảnh bản đồ Nam Kỳ tỷ lệ 125 và tập bản đồ của Fê là kết quả cuộc thám sát từ Sài Gòn theo sông Mê Kông lên đến Trung làm như ở miền Nam, ở miền Bắc, Erốt và Buylê đo 1 đường đáy tam giác ở Đồ Sơn, xác định kinh tuyến tại Hải Phòng, lập lưới tam giác ở Bắc Bộ 1874-1875, Rơnots đo ven biển vịnh Bắc Bộ lên đến Trung Quốc 1879, Caxpari đo bờ biển Trung Bộ từ Phan Rang đến Quảng Bình đã góp phần đáng kể để thực dân Pháp chiếm xong Bắc Kỳ năm 1886. Trước đó 5 năm 1881 bản đồ toàn bộ Đông Dương của Đơ Ranh đã được xuất bản với toàn bộ địa danh đã được Pháp 1954, hoà bình được lập lại, Việt Nam bị chia cắt thành hai miền. Miền Nam dưới chế độ nguỵ quyền và bảo hộ của hiện ý đồ chiến lược toàn cầu, dựa vào các kết quả đo vẽ của Pháp, Mỹ đã hoàn thành bản đồ địa hình quân sự 150 trên toàn cõi Đông năm 1964, những bản đồ cũ của Pháp đã được hiệu chỉnh theo ảnh hàng không cho bản đồ cơ bản 150 toàn Việt Nam và năm 1967 cho toàn Đông ra, quân đội Mỹ cũng đã tiến hành đo vẽ các bản đồ 110; 125 ở các thành phố lớn, 125 ở một số vùng riêng lẻ ở khu vực sông Mê Kông. Ở tỷ lệ 125 có loại bản đồ ảnh Pictomap. Đến tháng 6 – 1967 đã có 830 mảnh Pictomap cho lãnh thổ Việt Nam và một phần Bắc Việt Nam và Nam Lào. Vừa kết hợp ảnh chụp vừa vẽ các ký hiệu bản đồ nên loại ảnh này ít chính xác không dùng được cho pháo binh vì chưa giải quyết được sai số ảnh do địa hình lồi lõm gây 1969 Cục bản đồ quân đội Mỹ đã chuyển sang xây dựng loại bản đồ ảnh thẳng đứng Orthopictomap tỷ lệ 125 sử dụng các tấm ảnh đã nắn khử sai số ảnh do địa hình gây nên.Trong số bản đồ quân sự về lãnh thổ Đông Dương, quân đội Mỹ còn xuất bản bản đồ phối hợp tác chiến tỷ lệ 1250 với khoảng cao đến đường đồng mức 100m loại có vờn bóng địa hình dùng cho bộ binh và pháo binh; loại có in thang tầng màu độ cao dùng cho không quân.Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời. Thực dân Pháp quay trở lại đánh chiếm nước ta năm 1946. Ngành bản đồ học chưa kịp chính thức ra đời đã phải cùng với cả dân tộc tiến hành cuộc kháng chiến 9năm xây dựng bản đồ địa hình quân sự. Lực lượng sản xuất bản đồ thời kỳ này là phòng Bản đồ Bộ Tổng tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam nay là Cục bản đồ quân sự.Một bước ngoặt to lớn trong lịch sử ngành trắc địa và bản đồ Việt Nam là sự ra đời của cơ quan đo đạc và bản đồ dân sự. Việc chính thức thành lập Cục đo đạc và bản đồ Phủ thủ tướng nay thuộc Tổng cục địa chính - Bộ tài nguyên Môitrường được thực hiện theo Nghị định TTCP số 444/TTg do thủ tướng Phạm Văn Đồng ký ngày 14 – 12 – 1959 và lực lượng cán bộ cùng với cơ sở vật chất chủ yếu ban đầu được tách từ một bộ phận của phòng bản đồ Bộ tổng tham mưu QĐNDVN. Chính vì thế có thể nói phòng bản đồ Bộ tổng tham mưu là tiền thân của ngành Trắc địa và Bản đồ nước Nghị định 444/TTg đã xác lập những nhiệm vụ chính cho Cục Đo đạc và Bản đồ Nhà nướca. Tổ chức việc đo đạc trong toàn quốcb. Thống nhất quản lý và chỉ đạo công tác đo đạc trong toàn Xuất bản và quản lý các loại bản Nghiên cứu môn khoa học đo đạc và bản theo đó, ngày 9 – 3 – 1965, Hội đồng Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã ra Nghị định 32/CP về quy định quản lý và sử dụng tư liệu đo đạc và bản đồ; Nghị định 206/TTg ngày 17 – 7 – 1972 xác định Cục đo đạc và bản đồ Nhà nước là cơ quan chịu trách nhiệm về công tác đo đạc và bản đồ trong cả nước, có tính công nghiệp và nghiên cứu khoa học. Đó là cơ sở pháp lý để xây dựng và phát triển ngành trắc địa và bản đồ nước ta. Về mặt đào tạo cán bộ chuyên ngành cũng có sự quan tâm, chú ý của Đảng và Chính phủ ta từ 1966 trong trường Mỏ địa chất Hà Nội có khoa Trắc địa và Bản đồ. Một số lượng lớn cán bộ, học sinh đã được gửi sang nước ngoài học tâp và tu nghiệp, năm 1960 thành lập tổ bộ môn bản đồ khoa Địa lý trường ĐHSP Hà Nội, năm 1979 bắt đầu đào tạo chuyên ngành bản đồ khoa Địa lý ĐH Tổng hợp Hà Nội, bộ môn Bản đồ khoa Thuỷ lợi trường Bách Khoa thành phố Hồ Chí Minh.Từ năm 1960 với sự trợ giúp của các chuyên gia các nước XHCN, Cục đo đạc và bản đồ đã bắt đầu xây dựng mạng lưới khống chế mới miền Bắc nước ta. Đến nay đã hoàn thành mạng lưới cấp I và đang hoàn thành mạng lưới cấp II, III, IV trong cả nay, chúng ta đã tự đo vẽ bản đồ tỷ lệ 110; 125 vùng đồng bằng, có nơi 15 bằng phương pháp đo ảnh lập thể, bản đồ 150 cho vùng núi và xuất bản các loại bản đồ khác nhau, các xêri bản đồ và Atlas, phần Giáo trình bản đồ học ppt ... thổ Các bản đồ được phân ra thành bản đồ thế giới, các bản đồ bán cầu, các bản đồ châu lục, các bản đồ các nước, các bản đồ các vùng, các bản đồ thành phố. Các yếu tố của bản đồ Để ... VỀ BẢN ĐỒ HỌC Đối tượng và nhiệm vụ của bản đồ Bản đồ học là lĩnh vực khoa học kỹ thuật về bản đồ, về các tính chất, phương pháp thành lập và sử dụng bản đồ. Đối tượng nhận thức của bản ... ngừng. Bản đồ học phát triển tạo ra các công nghệ mới cho sản xuất và sử dụng bản đồ, cho phép các nhà khoa học bản đồ xây dựng một tư duy mới, một cách nhìn nhận mới đối với bản đồ học và... 217 670 7 GIÁO TRÌNH BẢN ĐỒ HỌC pot ... bản đồ địa hình. Ngoài ra, bố cục bản đồ bao gồm khung bản đồ, sự định hướng và bố trí lãnh thổ bản đồ trong khung, sự phân mảnh đánh số bản đồ cũng là các yếu tố cơ sở toán học của bản đồ. ... quyết toàn bộ lý luận khoa học bản đồ Toán bản đồ, Tổng quát hoá bản đồ, Hệ thống ngôn ngữ bản đồ, Tư liệu bản đồ, Thiết kế và xuất bản, và - 1 cho vùng đồng bằng Bắc Bộ, Trung Bộ ... xuất bản đồ. - Tự động hoá sản xuất bản đồ Nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật điện tử - tin học, cơ khí hoá, điều khiển học, vào các công đoạn sản xuất bản đồ. Bản đồ học... 237 360 2 GIÁO TRÌNH BẢN ĐỒ ĐỊA CHÍNH ... lãnh thổ thì các bản đồ được phân ra Bản đồ thế giới, bản đồ bán cầu, bản đồ châu lục, bản đồ các nước, bản đồ vùng, CÁC YẾU TỐ CỦA BẢN ĐỒ Để thành lập và sử dụng các bản đồ, không những ... của bản đồ, đồng thời nghiên cứu những vấn đề thiết kế các ký hiệu quy ước. - In bản đồ Nghiên cứu các phương pháp chế bản in và in bản đồ. - Sử dựng bản đồ Đó là một bộ phận của bản đồ học ... lý thuyết của bản đồ Nghiên cứu các loại bản đồ, tính chất và các yếu tố của bản đồ, khả năng sử dụng các bản đồ trong thực tế, lịch sử phát triển của bản đồ học. - Toán bản đồ Nghiên cứu... 138 2,490 14 Tài liệu GIÁO TRÌNH ĐỘNG VẬT HỌC pptx ... gồm Hình thái học động vật, Sinh lý học động vật, Sinh thái học động vật, Di truyền học động vật, Phân loại học động vật, Địa động vật học, Sinh hoá học động vật, Lý sinh học động vật Đến ... các bộ môn nhỏ hơn như Hình thái học bao gồm Giải phẫu học, Tế bào học, Tổ chức học hay Sinh lý học bao gồm Sinh lý học so sánh, Sinh lý học tiêu hoá, Sinh lý học bài tiết Nếu nghiên cứu riêng ... thái học, Ký sinh trùng học, Thuỷ sinh vật học Ngày nay Động vật học đã trở thành một môn học đồ sộ với nhiều lĩnh vực khác nhau và đã trở thành một thành viên của hệ thống các khoa học tự... 186 1,314 9 Tài liệu Giáo trình môn tin học ppt ... dụ việc học lấy bằng kỹ sư CNTT khoa CNTT ĐHBK có thểbao gồm 9 công việc nhỏ hơn là học từng học kỳ từ 1 tới 9, học học kỳ i là học n môn học của học kỳ đó, học 1 môn học là học m chương ... Bách Khoa Tin học Slide 71MÔN TIN HỌCChương 3TỔNG QUÁT VỀ LẬP TRÌNHBẰNG VISUAL BASICChương 3 Tổng quát về lập trình Visual Các khái niệm cơ bản về mô hình hướng đối ... Bách Khoa Tin học Slide 93Chương 4QUI TRÌNH THIẾT KẾ TRỰC QUANGIAO DIỆN CỦA ỨNG DỤNGChương 4 Qui trình thiết kế trực quan giao diện của ứng dụngMÔN TIN Dự Án Và Ứng 176 694 2 Tài liệu Giáo trình tinh thể học pptx ... nhau của các hạt thay thế đồng hình ta lại phân làm 2 loại đồng hình Đồng hình hoàn toàn và đồng hình bộ phận . ➊ Đồng hình hoàn toàn xảy ra nếu như các hạt thay thế đồng hình có thể thay ... bố tại các hổng Tinh thể học 1 GIÁO TRÌNH TINH THỂ HỌC DÀNH CHO SINH VIÊN NGÀNH CÔNG NGHỆ HÓA HỌC Tinh thể học 27 74,02323382234260sin3423023====πππRRRCaRZPhh ... của cấu tử dung môi Phân loại đồng hình - Dựa vào tính chất của các hạt thay thế đồng hình ta chia ra làm 2 loại đồng hình ➊ Đồng hình đồng hóa trị trường hợp này dung dịch rắn... 50 490 6 Tài liệu Giáo trìnhSinh thái học ppt ... vực khoa học khác, sinh thái học còn rất non trẻ, nhưng do đượckế thừa những thành tựu của các lĩnh vực khoa học trong sinh học, hóa học, vật lí học, khoa học về trái đất, toán học, tin học nên ... cao nhất trong sinhChương KHÁI NIỆM CƠ BẢN CỦASINH THÁI HỌCSinh thái học là gì?Sinh thái học là một trong những môn học cơ sở của sinh học, nghiên cứu vềmối quan hệ tương tác giữa ... thái học xuất hiện rất sớm, ngay từ khi con người rađời, song sinh thái học trở thành một khoa học thực sự chỉ trong khoảng hơn 100năm qua. ở những ngày đầu khi mới ra đời, sinh thái học tập... 125 877 7 GIÁO-TRÌNH-HÁN-NGỮ-HỌC ppt ... 末, 事 有 終 始 Vật hữu bản mạt, sự hữu chung thuỷ. Vật thì có gốc có ngọn, việc thì có đầu có cuối – ại Học. 圖 âm đồ. bộ 氵 vi. nghĩa vẽ, tranh hoạ đồ, địa đồ, đồ thư quán. ... Rất mong các bạn học tập và thực hành thành sĩ - Nghệ sĩ Ngô Toàn Thắng Sưu tầm, chỉnh lý, bổ xung và nâng cấp tiện ích giáo trình 一 本 圖 多 字 少 thư nhất bản đồ đa tự thiểu ... chuyển tới các bạn phần đầu bộ GIÁO TRÌNH HÁN NGỮ HỌCtrên cơ sở tập sách của học giả Lưu Khôn và một số các nhà nghiên cứu Hán Nôm khác; bằng kinh nghiệm tự học và tự hành của chúng tôi, kết... 74 915 2 GIÁO TRÌNH Môn NẤM HỌC ppt ... đặc điểm sinh lý 4 đặc điểm tế bào học và di truyền học 5 đặc điểm kháng huyết thanh 6 đặc tính sinh hóa chung 7 phân loại số học Giáo trình Nấm học - Biên soạn PGs. Ts. Nguyễn văn ... vòng khác nhau. Giáo trình Nấm học - Biên soạn PGs. Ts. Cao Ngọc Điệp 56Hình thức sinh sản hữu tính của nấm này thường xảy ra vào cuối mùa lủ; hầu hết các loài là đồng tản, chỉ có vài ... thì phân chia thành 3 dạng khuẩn ty Bánh mìDĩa petri Không bàonhânvỏ khuẩn ty Giáo trình Nấm học - Biên soạn PGs. Ts. Cao Ngọc Điệp Lớp Hemiascomycetes Lớp ngành gồm những... 112 1,393 19 TỔNG QUAN VỀ BẢN ĐỒ HỌC ppt ... VỀ BẢN ĐỒ HỌC Đối tượng và nhiệm vụ của bản đồ Bản đồ học là lĩnh vực khoa học kỹ thuật về bản đồ, về các tính chất, phương pháp thành lập và sử dụng bản đồ. Đối tượng nhận thức của bản ... xuất bản đồ. - Tự động hoá sản xuất bản đồ Nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật điện tử - tin học, cơ khí hoá, điều khiển học, vào các công đoạn sản xuất bản đồ. Bản đồ học ... toán học của bản đồ. - Thiết kế và thành lập bản đồ Đó là một trong những bộ môn quan trọng nhất của bản đồ học. Nó nghiên cứu và xây dựng lý thuyết tổng quát hoá bản đồ, công nghệ thiết kế bản... 4 500 3 Giáo trình "Bản đồ học" được biên soạn nhằm phục vụ sinh viên ngành bản đồ và các ngành học khác có liên quan, quan tâm tới công nghệ sản xuất bản đồ. Giáo trình gồm 7 chương với các nội dung chính chương 1 tổng quan về bản đồ học, chương 2 lý thuyết chung về phép chiếu bản đồ, chương 3 tổ chức thành lập và tổng quát hoá bản đồ, chương 4 phân loại các bản đồ và tập bản đồ, chương 5 các phương pháp thành lập, hiệu chỉnh bản đồ, chương 6 thiết kế biên tập và thành lập bản đồ, chương 7 sử dụng bản đồ. MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU 1 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ BẢN ĐỒ HỌC 4 Đối tượng và nhiệm vụ của bản đồ 4 Định nghĩa và tính chất bản đồ 6 Phân loại bản đồ 7 Các yếu tố của bản đồ 8 Lược sử phát triển của bản đồ học 9 Triển vọng phát triển của bản đồ học 20 Vai trò của bản đồ trong thực tiễn và khoa học 21 CHƯƠNG 2 LÝ THUYẾT CHUNG VỀ PHÉP CHIẾU BẢN ĐỒ 23 Lý thuyết chung về phép chiếu bản đồ 23 Phân loại phép chiếu bản đồ 32 Phân mảnh và đánh số bản đồ địa hình 64 CHƯƠNG 3 TỔ CHỨC THÀNH LẬP VÀ TỔNG QUÁT HOÁ BẢN ĐỒ 72 Công tác tổ chức thành lập bản đồ 72 Tổng quát hoá bản đồ 77 CHƯƠNG 4 PHÂN LOẠI CÁC BẢN ĐỒ VÀ TẬP BẢN ĐỒ 92 Các nguyên tắc phân loại bản đồ 92 Phân loại bản đồ theo tỷ lệ và lãnh thổ 94 Phân loại bản đồ theo nội dung 96 Phân loại bản đồ theo mục đích sử dụng 99 Các kiểu bản đồ địa lý 100 Những khái niệm cơ bản về tập bản đồ 103 CHƯƠNG 5 CÁC PHƯƠNG PHÁP THÀNH LẬP HIỆU CHỈNH BẢN ĐỒ ĐỊA HÌNH 108 Bản đồ địa hình 108 Bản đồ địa hình khái quát 108 CHƯƠNG 6 THIẾT KẾ BIÊN TẬP VÀ THÀNH LẬP BẢN ĐỒ 137 Cơ sở lý thuyết thiết kế, biên tập và thành lập bản đồ 137 Thiết kế bản đồ 146 Các công tác chuẩn bị và biên tập bản đồ 165 Lý thuyết chung về thành lập bản đồ gốc 175 Các thiết bị kỹ thuật được sử dụng trong sản xuất bản đồ 185 Thiết kế biên tập và thành lập bản đồ địa lý chung 189 Thiết kế biên tập và thành lập bản đồ chuyên đề 199 CHƯƠNG 7 SỬ DỤNG BẢN ĐỒ 209 Khái niệm chung 210 Các phương pháp xác định một số yếu tố trên bản đồ 210 Xác định một số chỉ tiêu hình thái 211 Độ chính xác của bản đồ và độ chính xác kỹ thuật 214 TÀI LIỆU THAM KHẢO 211 215 trang Chia sẻ tlsuongmuoi Lượt xem 8804 Lượt tải 5 Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình “Bản đồ học”, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trênội dung theo từng khu vực. Thành lập hết tất cả các nội dung ở khu vực này mới chuyển sang khu vực khác. Phương án 1 thực hiện khi các nội dung bản đồ nằm trên nhiều bản đồ tư liệu khác nhau. Phương án 2 thường áp dụng khi thành lập các bản đồ địa hình. Cũng có thể kết hợp cả 2 phương án trên. Bản gốc biên vẽ được hoàn thành ở dạng bản gốc có các hình vẽ nét và các yếu tố nội dung nền diện tích được tô màu bổ trợ diện tích mặt nước, diện tích rừng, thực vật. Chất lượng bản gốc biên vẽ được coi là tốt nếu nó được đảm bảo + Thành lập bản đồ bằng các ký hiệu, màu sắc gần với bản đồ cần lập. + Màu mực vẽ trên bản biên vẽ phải thuận tiện cho các công việc về ảnh ở giai đoạn sau. Ví dụ Để vẽ thuỷ hệ bằng màu xanh lá cây; mật độ quang học của mực vẽ phải đảm bảo. + Màu tô cho các yếu tố nền phải khó hấp thụ trên phim ảnh Vídụ Tô màu tím đỏ thay cho màu xanh lá cây ở các diện tích rừng. + Tuân thủ hình dạng, kích thước tất cả các ký hiệu chữ số ghi chú trên bản biên vẽ. Yếu tố quan trọng của bản biên vẽ là trình bày. Nó bao gồm Sơ đồ bố cục, phân bố bảng chú giải, đồ thị, tên gọi đầu đề, khung bản đồ. Bản biên vẽ làm ra phải tương tự với các bản đồ đã xuất bản trước đó. Đối với các bản đồ nhiều tờ như bản đồ địa hình hay một số bản đồ chuyên đề thì cần có sơ đồ ghép mảnh, có phần tiếp biên trên các tờ bản đồ. Từ bản gốc biên vẽ, người ta tiến hành làm bản thống kê chữ số trên bảng này chỉ ra số lượng chữ số, kiểu chữ và kích thước chữ để tiến hành chụp chữ hay chế bản điện tử trên máy vi tính phục vụ cho giai đoạn trình bày và chuẩn bị in. Toàn bộ quá trình thành lập bản đồ được ghi lại trong lý lịch bản đồ. Kết quả của quá trình thành lập bản đồ gồm Các bản gốc biên vẽ, các mẫu, sơ đồ cho giai đoạn chuẩn bị in, mẫu màu, bảng thống kê chữ số, lý lịch bản đồ. Các thiết bị kỹ thuật được sử dụng trong sản xuất bản đồ Trong quy trình sản xuất bản đồ có nhiều công đoạn chính. Ở mỗi giai đoạn có những đặc thù công việc riêng, do đó khác với các quy trình sản xuất khác, quy trình sản xuất bản đồ chỉ có thể ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật trong một số công việc nhất định nhằm tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, rút ngắn thời gian sản xuất, thuận tiện cho việc lưu trữ, bảo quản sản phẩm,... Vấn đề đặt ra trong chương này chỉ cho chúng ta biết các khái quát chung, cụ thể chi tiết sẽ được xem xét trong môn học “Tin học ứng dụng” và “Tự động hoá sản xuất bản đồ”. Các thiết bị dùng cho thành lập bản đồ trong giai đoạn đầu tiên sản xuất bản đồ - biên tập và thành lập bản đồ Ở giai đoạn đầu Chuẩn bị biên tập vẫn là công việc quan trọng nhất, nó được quyết định bởi trình độ của biên tập viên bản đồ không có máy móc nào có thể thay thế. Sản phẩm dùng của giai đoạn này là kế hoạch biên tập và các phụ lục, chỉ dẫn kèm theo. Các tư liệu bản đồ dùng để thành lập bản đồ mới có thể ở dạng bản đồ tư liệu hình ảnh bản đồ hay ở dạng số liệu biểu bảng, văn bản,..., để nhập vào máy tính điện tử cần phải qua quá trình số hoá tư liệu bản đồ. Số hoá tư liệu bản đồ thực chất là quá trình biến đổi các ngôn ngữ, hình ảnh thông thường sang dạng ngôn ngữ máy tính. Quá trình số hoá tư liệu bản đồ có thể được thực hiện bằng những phần mềm chuyên dụng mua của các hãng máy tính nước ngoài như Autocad, Mapinfo, Intergraph,... trên các máy tính điện tử hoặc có thể số hoá bằng các thiết bị thủ công Bàn số hoá. Tuỳ thuộc vào trang thiết bị của các cơ sở sản xuất, trình độ tay nghề cán bộ công nhân viên, nguồn tư liệu bản đồ, yêu cầu kỹ thuật, độ chính xác của bản đồ cần thành lập, mối liên hệ với quy trình công nghệ sản xuất tiếp theo mà người ta lựa chọn phương pháp số hoá và các phần mềm dùng để số hoá. Thí dụ đối với các tư liệu bản đồ cũ có hình ảnh không rõ ràng thì số hoá bằng bàn số hóa, các tư liệu ở dạng số, biểu bảng được nhập qua bàn phím, các tư liệu bản đồ cũng có thể được quét trên máy quét sau đó số hoá vectơ hoá trên máy tính bằng các phần mềm chuyên dụng. Theo đặc điểm và các tính năng kỹ thuật, các thiết bị số hoá có thể chia làm 2 nhóm chính 1- Các thiết bị số hoá thủ công bàn số hoá được các hãng máy tính nước ngoài sản xuất Mỹ, Anh, Đức,.... 2. Các trang thiết bị số hoá bán tự động và tự động Bao gồm các máy quét scanner đen trắng, màu với độ phân giải khác nhau, kích thước bản vẽ từ A4 A0. Tư liệu bản đồ sau khi quét trên máy quét được đưa vào máy tính. Bằng các phần mềm chuyên dụng, người ta tiến hành số hoá. Tuỳ thuộc vào chất lượng hình ảnh đã quét và phần mềm sử dụng để số hoá, người ta tiến hành số hoá tự động hoặc bán tự động. Để thuận tiện cho sử dụng và lưu trữ thông tin bản đồ và cũng để tránh nhầm lẫn, bỏ sót trong quá trình số hoá bản đồ, người ta thường tiến hành tách lớp nội dung bản đồ. Việc tách lớp nội dung bản đồ phụ thuộc vào đặc điểm của tư liệu bản đồ, yêu cầu đối với bản đồ cần lập, sự thuận tiện cho sử dụng và lưu trữ, bảo quản thông tin bản đồ. Các dữ liệu thông tin bản đồ khi nhập vào máy tính điện tử thường được thể hiện dưới 2 dạng chính + Dạng raster tơ ram đó là dạng lưu và thể hiện hình ảnh bản đồ bằng tập hợp các điểm ảnh có độ sáng tối, mật độ quang học và màu sắc khác nhau. Chất lượng hình ảnh phụ thuộc vào độ phân giải của máy móc thiết bị Kích thước của một đơn vị điểm ảnh pixel. + Dạng vectơ Hình ảnh bản đồ là tập hợp các điểm có toạ độ xác định x,y,z trong một hệ tọa độ xác định và chúng có mối liên hệ mật thiết với nhau. Mỗi hình ảnh bản đồ ở dạng dữ liệu này có thể ở 3 dạng - Điểm Đó là các điểm riêng biệt có toạ độ xác định độc lập x,y,z. - Đường Đó là tập hợp của một số điểm có cùng tính chất, đặc điểm, chúng liên hệ với nhau theo một quy luật nào đó. - Vùng Đó là một diện tích được xác định bằng một đường bao xung quanh. Những điểm nằm trong diện tích này có cùng đặc điểm và tính chất. Số hoá bản đồ là quá trình chuyển đổi hình ảnh bản đồ tư liệu dạng rater sang hình ảnh bản đồ cần lập dạng vectơ. Trong quá trình số hoá, người ta có thể tiến hành biên tập, tổng quát hoá các đối tượng, hiện tượng. Việc biên tập, tổng quát hoá nội dung bản đồ có thể được thực hiện bằng nhiều cách - Tổng quát hoá sơ bộ trước khi số hoá. - Đồng thời tổng quát hoá trong quá trình số hoá. - Tổng quát hoá sau khi số hoá. Sau khi số hoá ta mới được các yếu tố nét bản đồ, người ta dựa vào các yếu tố nét để tô màu nền bản đồ ở các diện tích cần tô. Trên máy tính điện tử có thể tạo ra 256 màu từ 3 màu cơ bản. Ba màu cơ bản này có thể chọn theo các hệ màu khác nhau tuỳ theo màu của máy tính hay màu do phần mềm điều khiển. Việc bố trí, sắp xếp chữ số trên bản đồ dựa vào các phông chữ kiểu, kích thước chữ đã cài đặt trên máy tính. Các ký hiệu quy ước dùng cho các đối tượng riêng rẽ độc lập có thể lấy từ thư viện ngân hàng ký hiệu của mỗi phần mềm hay tự thiết kế bằng cách viết các chương trình vẽ ký hiệu bằng ngôn ngữ tương thích của máy tính và phần mềm. Sau khi biên tập và thiết kế bản đồ trên máy tính điện tử người ta được bản đồ cần thành lập ở dạng số bản đồ số. Bản đồ này có thể hiển thị trên màn hình của máy tính để xem, kiểm tra và báo cáo cũng có thể được ghi vào băng, đĩa từ VCD. Nếu nối máy tính điện tử với máy vẽ ploter có thể in ra bản đồ trên giấy điamat, trên vật liệu ảnh tạo ra bản đồ dạng truyền thống hoặc nối với máy khắc tạo ra các khuôn in. Trên máy tính điện tử, nếu bản đồ được thành lập bằng phần mềm đồ hoạ Freehand, Coreldraw thì còn có khả năng nối với máy in ảnh để tạo ra các phim tách màu phục vụ cho giai đoạn chuẩn bị in. Thiết kế biên tập và thành lập bản đồ địa lý chung Theo phân loại bản đồ ta có 2 nhóm chính Bản đồ địa lý chung và bản đồ chuyên đề. Bản đồ địa lý chung và atlas địa lý chung là một trong những dạng sản phẩm quan trọng của bản đồ. Trong bản đồ địa lý chung, các bản đồ có tỷ lệ ³ 1 được gọi là bản đồ địa hình. Việc thiết kế và thành lập bản đồ địa hình đã được quy định, tiêu chuẩn hoá trong các quy phạm, chỉ dẫn biên tập của quốc gia và được xem xét cụ thể trong môn học “Bản đồ địa lý chung”. Vì vậy, ở chương này chúng ta chỉ xem xét một số đặc điểm trong thiết kế thành lập bản đồ địa lý chung. Một số yêu cầu khi thiết kế bản đồ địa lý chung Theo phân loại bản đồ địa lý ta có A- Bản đồ địa lý chung 1- Bản đồ địa lý chung phần đất liền Lục địa - Bản đồ địa hình tỷ lệ lớn và trung bình - Bản đồ địa hình khái quát tỷ lệ nhỏ. - Bản đồ địa lý chung + Tra cứu chi tiết. + Tra cứu khái quát. + Địa lý chung. 2- Bản đồ biển và đại dương - Bản đồ địa hình thềm lục địa. - Các bản đồ biển khác và bản đồ địa hình đáy biển + Bản đồ hàng hải. + Bản đồ độ sâu đáy biển. + Các loại bản đồ khác. B- Bản đồ chuyên đề 1- Bản đồ tự nhiên – Các bản đồ địa lý tự nhiên 2- Bản đồ kinh tế - xã hội. C- Bản đồ chuyên đề tự nhiên – xã hội Là kết hợp nội dung của bản đồ chuyên đề và địa lý chung. Từ cách phân loại trên ta thấy vai trò, ý nghĩa quan trọng của bản đồ địa lý chung. Trong sản xuất bản đồ thì loại sản phẩm chủ yếu là bản đồ địa lý chung. Các giai đoạn chính và dạng công việc khi thiết kế thành lập bản đồ địa lý chung là - Xác định vùng lãnh thổ bản đồ cần thể hiện và mục đích của bản đồ. - Thiết kế cơ sở toán học. - Xác định các yếu tố nội dung bản đồ và soạn thảo các nguyên tắc tổng quát hoá nội dung. - Thiết kế phương pháp, cách thể hiện nội dung bản đồ và trình bày bản đồ. - Xác định công nghệ hoàn thành các công việc biên tập, thành lập chuẩn bị in bản đồ. Xác định vùng lãnh thổ bản đồ cần thể hiện xuất phát từ các nhiệm vụ được đặt ra, nó liên quan đến xác định ranh giới, vị trí địa lý cũng như các yếu tố của vùng lân cận. Tên gọi của lãnh thổ thể hiện đối tượng địa lý hay địa phương, đơn vị lãnh thổ của bề mặt trái đất. Nó được xác định sao cho thể hiện được đề tài của bản đồ địa lý chung. Trên các bản đồ địa lý chung cùng với số liệu bản đồ bản đồ địa hình bao giờ cũng có tên gọi to, rõ ràng của đối tượng chính của bản đồ có tên gọi theo ý nghĩa tự nhiên hay kinh tế xã hội. Xác định mục đích của bản đồ là xác định bản đồ làm ra để giải quyết nhiệm vụ gì? Đối tượng sử dụng bản đồ là ai? Phụ thuộc vào điều này mà người ta sẽ quyết định dạng, loại bản đồ, bản đồ tờ đơn hay trong sêri bản đồ, atlas bản đồ, chức năng của bản đồ trong số các bản đồ của atlas. Cũng từ mục đích của bản đồ mà người ta sẽ xác định các tư liệu bản đồ cần thiết, cơ sở địa lý cho các loại bản đồ khác. Hiện nay đòi hỏi đối với bản đồ địa lý chung là nâng cao tính thông tin khả năng lưu trữ, truyền đạt, truy nhập thông tin từ bản đồ. Cụ thể hoá mục đích của bản đồ địa lý chung được thiết kế bao gồm Các loại bản đồ và đặc điểm sử dụng chúng. Nói chung, về nguyên tắc, vấn đề thể hiện các thông tin địa hình, đảm bảo độ chính xác hình học và sự tương ứng của hình ảnh bản đồ với đối tượng thực tế là mục đích của bản đồ địa lý chung. Đặc điểm chính của thiết kế cơ sở toán học cho bản đồ địa lý chung là dựa vào mục đích bản đồ, hình dạng và kích thước vùng lãnh thổ, vị trí địa lý của nó, yêu cầu và đòi hỏi về độ biến dạng góc, diện tích, khoảng cách; yêu cầu tối thiểu với đặc điểm sinh học của mắt để phân biệt hình ảnh. Nhiệm vụ lựa chọn phép chiếu bản đồ rất phức tạp khó khăn vùng lãnh thổ càng rộng càng khó. Vấn đề lựa chọn phép chiếu cho bản đồ địa lý chung và các loại bản đồ được xem xét kỹ trong môn học Toán bản đồ. Khi thiết kế nội dung bản đồ địa lý chung, người ta dựa vào loại bản đồ, mục đích bản đồ và tỷ lệ bản đồ. Giải quyết trường hợp này cần xem xét trong các trường hợp cụ thể. Ví dụ Các bản đồ tra cứu chi tiết để giải quyết nhiệm vụ bản đồ thì phải thể hiện đầy đủ các thông tin địa hình, thể hiện khái quát địa lý tổng hợp về mối quan hệ về cấu trúc của vùng lãnh thổ, mối quan hệ của các đối tượng với nhau. Để thể hiện địa hình người ta thường dùng đường bình độ nhưng ngoài ra còn dùng thang tầng màu địa hình, vờn bóng địa hình,.... Trên các bản đồ này tên gọi địa danh, ghi chú, chú giải cũng đóng vai trò rất quan trọng. Nói chung, để xác định loại bản đồ địa lý chung, người ta thường xem xét 2 đặc tính chính - Tính tra cứu. - Tính khái quát. Khi thể hiện tập hợp địa lý cần phải tiến hành nghiên cứu, làm rõ các đặc điểm cơ bản của nó, từ đó xác định điều kiện và nguyên tắc tiến tới từng bước cụ thể hoá chỉ ra các đối tượng, các thành phần yếu tố của nó trong đó có tính đến tỷ lệ bản đồ và phương pháp thể hiện. Trong trường hợp soạn thảo các phương án cho bản đồ mà nội dung chính là tập hợp địa lý chung thì khi thiết kế cũng hướng sao cho thể hiện được các đặc điểm tự nhiên cảnh quan, dạng địa hình tự nhiên hay các điều kiện địa lý xã hội. Đồng thời với việc xác định nội dung cơ bản người ta cũng đặt ra các nguyên tắc phản ánh các khái niệm tra cứu tương ứng với mục đích bản đồ và đặc điểm của các tư liệu bản đồ được sử dụng. Những vấn đề quan trọng trong thiết kế các bản đồ địa lý chung là - Lựa chọn phương pháp thể hiện. - Soạn thảo ra các ký hiệu quy ước. - Giải quyết trình bày bản đồ. Khi thiết kế hệ thống ký hiệu và xác định dạng bản đồ địa lý chung theo trình bày màu sắc phải giải quyết các vấn đề sau + Soạn thảo các phương pháp tối ưu cho mỗi yếu tố cấu thành cấu trúc không gian lãnh thổ đường sá, điểm dân cư, thuỷ hệ,..., truyền đạt các thông tin đo được và các thông tin khác về chúng từ góc độ trực quan và theo phân loại chúng. + Phối hợp các phương pháp thể hiện khác nhau và sử dụng chúng để truyền đạt khái quát nhiều mặt nội dung bản đồ, truyền đạt mối liên hệ các đối tượng tự nhiên và kinh tế xã hội. + Đảm bảo độ đọc của bản đồ, với từng yếu tố nội dung riêng lẻ, từng ký hiệu và cả khi thể hiện tất cả, đồng thời, ở đây cần tính đến cả các ghi chú, chú giải và đặc điểm phân bố chúng. + Đảm bảo tính thẩm mỹ trong trình bày, sử dụng màu tươi, sống động hài hoà. Trong các phương pháp truyền thống thể hiện hình ảnh bản đồ của các yếu tố nội dung bản đồ địa lý BĐĐL chung, người ta thường dùng ảnh hàng không, ảnh vệ tinh để thể hiện mô hình địa hình. Khi thành lập bản đồ cho quảng đại quần chúng cố gắng thành lập hình ảnh sống động về cảnh quan vùng, địa phương để tăng thêm sự hấp dẫn và chú ý của người sử dụng. Thiết kế công nghệ hoàn thành các công việc thành lập BĐĐL chung liên quan đến đặc điểm của nguồn tư liệu bản đồ, khả năng sử dụng thứ tự in với vờn bóng địa hình, trình bày màu sắc. Công tác chuẩn bị biên tập, đặc điểm tổ chức và phương pháp tiến hành Các công việc của giai đoạn chuẩn bị biên tập BĐĐL chung và đặc điểm của chúng gồm có - Tập hợp, thu thập, lưu trữ và xử lý các tư liệu bản đồ và các nguồn tư liệu khác phục vụ cho sản xuất và hiệu chỉnh bản đồ. - Tiến hành các công việc thử nghiệm khoa học và một số công việc đặc trưng của công tác tổ chức - chuẩn bị. - Chuẩn bị các tài liệu biên tập khác nhau. Thu thập, lưu trữ và xử lý bản đồ, các tư liệu thống kê, tra cứu cho thành lập bản đồ địa lý chung được tiến hành thường xuyên, liên tục. Đây là một trong những nhiệm vụ của bộ phận tra cứu ở các cơ sở sản xuất bản đồ. Các tư liệu chính để thành lập bản đồ địa lý chung là các bản đồ địa lý chung tỷ lệ khác nhau, bản đồ địa hình, bản đồ hàng hải và một loạt các số liệu thống kê. Các tư liệu phụ bổ sung có thể là Bản đồ hành chính – chính trị, giao thông, du lịch và ảnh vũ trụ, hàng không, các bài viết, sách báo, công trình khoa học, bách khoa toàn thư... Các tư liệu chính và phụ để thành lập bản đồ cần đảm bảo Độ chính xác đối tượng trên bản đồ được thành lập; thể hiện được đặc điểm địa lý; sự đầy đủ khái quát đối tượng tổng quát hoá; độ tin cậy và tính hiện đại của bản đồ. Hệ thống hoá nguồn tư liệu được thực hiện theo vùng lãnh thổ, đề tài nội dung, mục đích và năm xuất bản. Trong số các phụ lục tra cứu cho thành lập bản đồ phải kể đến các biểu bảng, sơ đồ, phụ lục khái quát và trực nhật. Ví dụ Bảng dân cư cho biết số dân, thời gian hình thành thành phố, lăng mạc,...; sơ đồ đường sá dùng để lựa chọn, lấy bỏ các con đường thể hiện trên bản đồ... Các tư liệu này cũng có thể thu thập, yêu cầu ở thư viện, ngân hàng thông tin, trung tâm thông tin quốc gia... Đặc biệt trong tương lai, người ta có thể lấy từ hệ thống thông tin địa lý GIS của mỗi quốc gia, thế giới và thông qua hệ thống Internet. Thử nghiệm khoa học và soạn thảo các tài liệu biên tập có ý nghĩa rất quan trọng đối với thành lập BĐĐL chung. Trước tiên phải làm các mẫu thử nghiệm cho tờ bản đồ. Các mẫu này phải đặc trưng cho nội dung cơ bản của bản đồ, cho các nguyên tắc tổng quát hoá, trình bày bản đồ và công nghệ thành lập. Khi tiến hành thử nghiệm phải sử dụng các nguồn tư liệu, vật liệu mới, công nghệ hiện đại. Ví dụ Dùng nguồn tư liệu ảnh vệ tinh, dùng các phần mềm chuyên dụng để thể hiện địa hình mô hình DEM thay cho đánh vờn bóng bằng tay. Soạn thảo tài liệu biên tập của BĐĐL chung tuân thủ theo nguyên tắc chung cho các bản đồ xem mục về thiết kế bản đồ nhưng nó cũng có các đặc điểm riêng phụ thuộc vào mức độ phức tạp của tác phẩm bản đồ bản đồ 1 tờ, bản đồ nhiều tờ hay sêri bản đồ. Đặc thù mục đích và nội dung của các tài liệu biên tập cơ bản cho các tác phẩm bản đồ lớn là khi soạn thảo các tài liệu này đồng thời giải quyết nhiệm vụ xác định các thông số và đặc điểm thành lập tác phẩm và cũng đặt ra các nguyên tắc đảm bảo hình ảnh lãnh thổ được thống nhất trên các tờ bản đồ bản đồ nhiều tờ hay trên mỗi bản đồ của sêri bản đồ. Công việc này được nhóm biên tập thực hiện. Các yếu tố nội dung bản đồ địa lý chung, đặc điểm thành lập và tổng hợp chúng Nội dung bản đồ địa lý chung được xác định phụ thuộc vào dạng bản đồ và mục đích, tỷ lệ bản đồ. Khi thành lập cần tính đến đặc điểm hình ảnh bản đồ gồm các đối tượng riêng lẻ và nguyên tắc tổng quát hoá chúng. Chúng ta sẽ xem xét những vấn đề chính khi thành lập từng đối tượng này 1- Thuỷ hệ Gồm có Đường bờ biển, đại dương với các đặc điểm liên quan đến thuỷ triều, đến không gian của lục địa với biển, sông, kênh, hồ và các công trình có liên quan. Thể hiện đường bờ biển bằng cách giữ nguyên hay khuyếch đại các đặc trưng đường bờ, kiểu bờ vịnh, đảo, quần đảo, dạng bờ biển. Sông được đặc trưng bằng chế độ nước chảy thường xuyên, theo mùa, thay đổi liên tục. Người ta chỉ ra các sông suối cạn, bãi đá, cát, bãi bồi, thác, ghềnh, phần sông chảy ngầm. Trên các bản đồ tỷ lệ nhỏ thể hiện đầy đủ châu thổ, lưu vực sông lớn, truyền đạt các dạng và mật độ hệ thống sông. Phân loại các dạng lưu vực sông và xây dựng các hình ảnh đặc trưng cho cấu trúc của hệ thống sông. Kết quả là qua hệ thống sông, người ta thể hiện được ở mức độ khác nhau của đồng bằng và các đặc điểm cấu trúc của nó. Các con sông có thể thể hiện bằng một nét với lực nét thay đổi hay bằng hai nét phụ thuộc vào độ rộng của con sông ở thực địa và tỷ lệ bản đồ. Đối với hệ thống sông ngòi có mật độ khác nhau, đặc điểm địa lý lãnh thổ khác nhau sẽ có chỉ tiêu tổng quát hoá khác nhau. Các ao hồ chia ra làm hồ nước ngọt và nước mặn với đường bờ cố định, hay thay đổi theo mùa. Khi thể hiện các ao hồ phải chỉ ra được sự phân bố của chúng với các đặc điểm cơ bản của nó. Định mức để tổng quát hoá các ao hồ cũng phụ thuộc vào từng vùng, địa phương. 2- Điểm dân cư Các dấu hiệu chung để phân loại điểm dân cư trên bản đồ địa lý chung là Số dân, kiểu cư trú, ý nghĩa hành chính – chính trị của chúng. Chúng được đặc trưng bởi kích thước và hình dạng điểm dân cư, chữ số ghi tên gọi các điểm dân cư. Số dân được biểu diễn bằng thang bậc phân chia số dân. Kiểu cư trú chia ra Thành phố, làng xóm cư trú kiểu thành phố và làng xóm nông thôn. Các thành phố lớn trên các bản đồ tỷ lệ lớn có thể thể hiện đúng hình dạng của nó hoặc đường viền lãnh thổ nhưng cũng có thể thể hiện theo ý nghĩa hành chính – chính trị Thủ đô, thị xã, thị trấn,... Mạng lưới điểm dân cư và cấu trúc của nó được biểu thị trên bản đồ theo hình dạng, phân bố của chúng và theo mật độ khác nhau. Khi phân bố trên bản đồ tên gọi các điểm dân cư cần cố gắng nhấn mạnh được đặc điểm cấu trúc và mật độ. 3- Mạng lưới đường giao thông Người ta sử dụng phân loại để đặc trưng cấu trúc mạng lưới đường sá theo dạng đường, điều kiện giao thông vận tải, chỉ ra ý nghĩa đường sá quốc lộ, tỉnh lộ,... Đường bộ thể hiện đường sắt và đường giao thông bộ. Trên bản đồ còn thể hiện các tuyến đường thuỷ, đường biển, cảng biển, kênh đào biển,... Ở những vùng sâu, khó khăn thể hiện cả đường mòn, đường nội bộ. Khi tổng quát hoá phải truyền đạt các đặc điểm phân bố đường sá, mật độ đường, đặt thứ tự thể hiện đường và mối liên hệ của đường với các điểm dân cư. 4- Địa hình Trên bản đồ địa lý chung sử dụng các phương pháp khác nhau biểu thị địa hình. Phụ thuộc mục đích bản đồ và nhiệm vụ cụ thể cần thiết với đặc điểm của địa hình bề mặt trái đất mà quyết định sử dụng phương pháp nào. Khi biểu thị đặc điểm địa mạo, loại và hình dạng địa hình, loại cảnh quan, diện tích phân bố địa hình thường áp dụng phương pháp thang tầng địa hình. Bằng cách này có thể thể hiện hình dạng địa hình, biểu thị rõ ràng hướng núi, đồng bằng, đồi gò và thác... Trên cơ sở giải quyết vấn đề lựa chọn thang cắt địa hình để người ta tiến hành tô màu và khái quát hình dạng địa hình. Với mục đích truyền đạt các tính chất điển hình, đặc điểm địa hình người ta dùng thang độ cao, độ sâu với các đường bình độ chính, phụ. Địa hình dưới nước biển biểu thị bằng các đường đẳng sâu với các tầng màu và ghi chú độ sâu. Soạn thảo thang màu nền theo thang tầng độ cao sao cho đảm bảo định hướng chung về phân bố độ cao và thể hiện rõ các dạng cảnh quan quan trọng đồng bằng, trung du, vùng núi, núi đá, núi cao,.... Khi khái quát dạng địa hình phải hợp lý về lôgic và địa lý + Theo cấu trúc đường. + Sát nhập các đường bình độ có tính đến mối liên hệ với thuỷ hệ,.... Đối với địa hình đặc biệt không thể hiện bằng các đường bình độ thì dùng các ký hiệu chuyên dụng đất sụp lở, núi lửa, núi đá, sông cạn,.... Khi dùng các ký hiệu này phải kết hợp ghi chú độ cao, độ sâu. Các đường bình độ không dùng kết hợp thang tầng màu độ cao, được dùng cho các bản đồ địa lý chung dạng nền cơ sở. Trong một số trường hợp, người ta không dùng đường bình độ mà chỉ dùng thang tầng màu độ cao và vờn bóng để thể hiện một cách khái quát địa hình. 5- Lớp phủ thực vật và thổ nhưỡng Trên các bản đồ tỷ lệ nhỏ thường thể hiện rừng, cát, đầm lầy,... Biểu thị rừng thường kết hợp với vờn bóng địa hình hay hình vẽ các đường bình độ. Các cồn cát, bãi đá, bãi san hô, đầm lầy cũng được thể hiện trên bản đồ. Khi tổng hợp hoá các đối tượng này cần biểu thị được diện tích tương đối của chúng, có thể bằng đường bao bọc hay sự phân bố của các đối tượng riêng lẻ và các mối liên hệ không gian của chúng với các yếu tố nội dung khác. Trên bản đồ biểu thị ranh giới của rừng quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên,... 6- Ranh giới Trên bản đồ thể hiện biên giới quốc gia, thủ đô, tên quốc gia. Trong mỗi quốc gia thể hiện mức phân chia hành chính. Đường ranh giới phải chính xác tới mức tối đa theo tỷ lệ bản đồ. Mỗi loại đường ranh giới được biểu thị bằng các ký hiệu tương ứng ý nghĩa của nó. 7- Tên gọi địa lý Khi bố trí chúng trên bản đồ phải giải quyết một loại nhiệm vụ mối liên quan với đối tượng cấu trúc, chức năng tra cứu, truyền đạt các đặc điểm khác của đối tượng. Nhiệm vụ đặc biệt nữa là phiên âm tên gọi và thành lập các chỉ dẫn sử dụng đối với atlas, bản đồ phức tạp. Các phương pháp thành lập bản đồ địa lý chung được phân ra + Theo tỷ lệ bản gốc biên vẽ, bản đồ được in. + Theo phương pháp đưa hình ảnh từ bản đồ tư liệu lên bản gốc. + Theo thứ tự thực hiện công việc. Phương pháp cơ bản đưa hình ảnh từ bản đồ tư liệu lên bản gốc là phương pháp cơ ảnh. Tuy nhiên, trong một số trường hợp phải chuyển đổi phép chiếu và thỉnh thoảng để chuyển hình ảnh từ bản đồ tư liệu lên bản gốc người ta dùng phương pháp theo lưới ô vuông. Khi thành lập thường lập bản gốc các đối tượng yếu tố nét, vờn bóng địa hình, ghi chú chú giải và các makét các yếu tố nền. Khi đó, người ta thường dùng các nguyên liệu bản nhựa trong điamát để có thể tách thành lập và dùng phương pháp phối kết hợp đảm bảo hiệu quả của sơ đồ công nghệ và nâng cao chất lượng công việc. Khi sử dụng các tư liệu bản đồ khác nhau có tỷ lệ lớn hơn, công việc thành lập bản đồ có thể tiến hành ở tỷ lệ của bản đồ tư liệu và đồng thời tổng quát hoá hình vẽ luôn. Đặc biệt là đối với địa hình và thuỷ hệ, khi đó tiến hành lựa chọn chi tiết các dạng điển hình, đặc trưng. Trước khi thành lập người thực hiện phải nghiên cứu kỹ vùng lãnh thổ thể hiện, đặc điểm địa lý của nó, các tư liệu bản đồ và các tài liệu biên tập. Khi thành lập từng yếu tố, từng đối tượng cần tính đến mối liên hệ của nó với các đối tượng khác. Khi chuẩn bị in, người ta áp dụng nhiều phương pháp khác nhau, sơ đồ công nghệ chuẩn bị bản gốc thanh vẽ khác nhau trên giấy, trên điamát, màng khắc,.... Ứng dụng các công nghệ hiện đại có thể đồng thời thành lập ra bản gốc biên vẽ, bản gốc thanh vẽ hay bỏ qua giai đoạn thanh vẽ đặc biệt là đối với công nghệ bản đồ số. Thiết kế biên tập và thành lập bản đồ chuyên đề Hiện nay, bản đồ chuyên đề BĐCĐ rất đa dạng phong phú về nội dung và mục đích sử dụng bản đồ. Nó phản ánh các hiện tượng, đối tượng tự nhiên, kinh tế, xã hội. Bản đồ chuyên đề được thiết kế và thành lập bởi - Cơ quan Trắc địa - bản đồ quốc gia thuộc Tổng cục địa chính đảm bảo đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế. - Các cơ quan, tổ chức chuyên ngành để giải quyết các nhiệm vụ cụ thể đặt ra đối với ngành. Nói chung, cơ sở để thiết kế BĐCĐ là sử dụng các phương pháp khoa học, các mô hình toán học, các phương pháp tiến dẫn hệ thống, tổng hợp, phương pháp mô hình hoá để biểu thị đối tượng, hiện tượng. Sự phát triển của bản đồ học chuyên đề và tổng hợp trong giai đoạn hiện đại là dựa trên nền tảng của soạn thảo các lý thuyết chung và các tài liệu định mức kỹ thuật cụ thể. Khi tổ chức hợp tác, cộng tác, người ta chia ra các giai đoạn chính - Theo thành lập BĐCĐ. - Đặt ra các kết quả định trước, đã tính sẵn và các yêu cầu đối với chúng. - Các dạng tham gia thực hiện của các cơ quan có liên quan. Để thực hiện thuận lợi và đáp ứng các yêu cầu, đòi hỏi với BĐCĐ tốt nhất là dùng các bản đồ địa hình làm bản đồ tư liệu, lấy nền cơ sở địa lý từ bản đồ địa hình, bản đồ địa lý chung, trên đó người ta thể hiện các nội dung chuyên đề, chuyên ngành. Bản đồ chuyên đề và nguyên tắc phân loại chúng BĐCĐ biểu thị các hiện tượng tự nhiên, kinh tế xã hội và sự kết hợp giữa chúng. Đề tài bản đồ xác định mức độ đầy đủ chi tiết khác nhau của nội dung bản đồ chuyên đề theo đề tài cụ thể. Ngoài ra, trên các BĐCĐ bao giờ cũng phải xác định mức độ thể hiện các tập hợp địa lý nền cơ sở địa lý, để trên đó thể hiện các đối tượng, hiện tượng chuyên đề. Ý nghĩa chính của BĐCĐ là đảm bảo cung cấp cho người sử dụng các thông tin chuyên đề về môi trường tự nhiên và các đối tượng kinh tế xã hội để giải quyết các nhiệm vụ khoa học hay kinh tế quốc dân, hay để truyền đạt các hiểu biết về thế giới quanh ta. Trên bản đồ chuyên đề cần biểu thị mức độ kiến thức hiện đại về các đối tượng, hiện tượng tương ứng với các ngành khoa học. Mức độ đầy đủ, chi tiết nội dung bản đồ cần tương ứng với tỷ lệ và mục đích bản đồ. Sự phát triển và tiến bộ không ngừng của bản đồ học chuyên đề đảm bảo điều kiện tối ưu giải quyết các nhiệm vụ chuyên ngành. Từ đó cũng xuất hiện các thuật ngữ mới BĐCĐ chuyên ngành. Sự đa dạng phong phú của BĐCĐ là điều kiện để phân loại và xác định các dạng, loại BĐCĐ. Khi thiết kế BĐCĐ cần xem xét đến mối liên hệ của chúng với các bản đồ địa lý chung. BĐCĐ có thể phân loại như sau - Theo nội dung đề tài. - Theo các phương pháp thể hiện. - Theo mục đích sử dụng. - Theo tỷ lệ và vùng lãnh thổ bản đồ thể hiện. Theo nội dung, BĐCĐ được chia nhóm theo các yếu tố môi trường tự nhiên và các hiện tượng kinh tế, xã hội; theo khoa học mà chúng được dùng để nghiên cứu. Theo phương pháp thể hiện, trên bản đồ chuyên đề có thể dùng các phương pháp thể hiện khác nhau đường đẳng trị, nền chất lượng, nền đồ giải... Theo các chỉ số, đặc trưng chất lượng, số lượng của đối tượng, hiện tượng, chúng biểu thị nhiều mặt của đối tượng hiện tượng cần nghiên cứu cấu trúc hiện tượng, phân bố đối tượng, mối liên quan của chúng, động thái của chúng,... Theo mục đích sử dụng, BĐCĐ được phân loại theo các dấu hiệu sau + Bản đồ khai thác và đánh giá. + Bản đồ kế hoạch hoá. + Bản đồ dự báo... Theo tỷ lệ và vùng lãnh thổ bản đồ thể hiện, BĐCĐ được phân loại theo nguyên tắc chung cho bản đồ địa lý chung. Nói chung, việc phân loại các BĐCĐ đã được đề cập tương đối kỹ trong phần phân loại bản đồ và atlas. Các đặc điểm chính khi thiết kế và thành lập bản đồ chuyên đề A/ Đặc điểm thiết kế bản đồ chuyên đề Khi thành lập BĐCĐ có rất nhiều vấn đề có liên quan cần phải giải quyết mục đích, đề tài, thể loại bản đồ... Trong mối liên hệ đó, thiết kế khoa học kỹ thuật BĐCĐ gồm các giai đoạn và công việc sau - Soạn thảo đề tài và mục đích bản đồ. - Thiết kế cơ sở toán học bản đồ. - Xác định các yếu tố nội dung bản đồ và các nguyên tắc tổng quát hoá chúng. - Lựa chọn phương pháp biểu thị và thiết kế hệ thống ký hiệu. - Soạn thảo bản chú giải cho BĐCĐ. - Thiết kế phần trình bày bản đồ. - Soạn thảo các makét và các tư liệu nội dung chuyên đề. - Xác định công nghệ thực hiện các công việc biên tập và thành lập, chuẩn bị in bản đồ. Các bản đồ chuyên đề mới được thành lập theo một loạt hướng sau - Biểu thị các lĩnh vực mới của môi trường quanh ta; mở rộng khái niệm chuyên đề trên cơ sở áp dụng các phương pháp mới, công nghệ mới. - Soạn thảo nguồn bản đồ mới, thiết kế các BĐCĐ với lượng thông tin lớn, các loại bản đồ mới theo mục đích sử dụng và hình thức trình bày. Xác định đề tài và mục đích bản đồ được thực hiện để đáp ứng yêu cầu sử dụng của các ngành cụ thể nền kinh tế quốc dân, khoa học và văn hoá. Lựa chọn đề tài là đặt ra, xác định tập hợp các đối tượng, hiện tượng cần thể hiện trên bản đồ và ý tưởng, ý nghĩa của hình ảnh bản đồ. Công việc này liên quan chặt chẽ với xác định kiểu, loại bản đồ và mục đích bản đồ để từ đó xác định tên gọi của bản đồ. Nguyên tắc hệ thống trong bản đồ học chuyên đề cho phép xác định vị trí của bản đồ trong tập bản đồ hay sêri bản đồ. Mục đích của bản đồ để xác định đặc điểm và lĩnh vực sử dụng bản đồ, yêu cầu về độ chính xác và các phương tiện biểu thị. Đề tài của bản đồ phụ, đồ thị, biểu đồ, các khái niệm khác về bản đồ, sơ đồ bố cục bản đồ,... Thiết kế cơ sở toán học cho bản đồ là lựa chọn cho nó phép chiếu bản đồ, tỷ lệ và bố cục bản đồ,... Phép chiếu bản đồ được chọn tương ứng với mục đích, nội dung, đặc điểm địa lý vùng lãnh thổ. Thông thường người ta chọn phép chiếu bản đồ trong số các phép chiếu có sẵn. Tốt nhất là sử dụng được các phép chiếu của bản đồ địa lý chung hay bản đồ địa hình tư liệu. Khi đó chỉ còn soạn thảo bố cục BĐCĐ theo sự phân chia hành chính, lãnh thổ, theo phân vùng địa lý tự nhiên hay kinh tế - xã hội. Trên bố cục BĐCĐ còn phải chú ý bố trí cho các bảng biểu, đồ thị, tranh ảnh,... Trong sản xuất bản đồ khi soạn thảo bố cục bản đồ cũng đồng thời xác định luôn kích thước của bản đồ có tính đến khả năng công nghệ in ấn xuất bản và các thông số kinh tế - kỹ thuật. Xác định các yếu tố nội dung BĐCĐ là một trong các giai đoạn chính của thiết kế BĐCĐ. Để giải quyết vấn đề này người ta đặt ra 3 nhiệm vụ liên quan với nhau 1- Xác định nguyên tắc biểu thị thống nhất từ chung đến riêng. Đặt ra các nhân tố đặc trưng cho tác phẩm bản đồ như một hệ thống thống nhất còn các yếu tố nội dung là các thành phần tạo nên hệ thống này. Với mục đích đó đòi hỏi phải + Nghiên cứu các đối tượng và hiện tượng, cấu trúc của chúng và các chỉ số cơ bản, các yếu tố trong mỗi đối tượng, hiện tượng; trạng thái và động thái phát triển của các đối tượng, hiện tượng này. + Làm rõ đặc điểm phân bố chúng, xác định đơn vị phân chia lãnh thổ. + Xác định mối liên hệ của các đối tượng, hiện tượng phân chia chúng cụ thể chi tiết, xác định các đặc điểm giá trị, đánh giá, tổng hợp của các đối tượng, hiện tượng. 2- Đặt ra cách phân loại các đối tượng, hiện tượng được thể hiện, những chỉ số đặc trưng của chúng, nguyên tắc khái quát các khái niệm, lựa chọn thang bậc tương ứng. 3- Xác định mức độ đầy đủ và chi tiết cần thiết khi thể hiện các đối tượng, hiện tượng, đặt chỉ tiêu định mức lựa chọn các yếu tố nội dung. Khi soạn thảo các yếu tố địa lý cần chọn các yếu tố đặc trưng cho hiện trạng địa hình, điều kiện địa lý và đặc điểm lãnh thổ. Trong sơ đồ công nghệ, việc thành lập cơ sở địa lý có thể làm riêng. Để chuẩn bị nền cơ sở địa lý có thể dùng bản đồ địa hình và các dẫn xuất của nó, bản đồ địa lý chung trong đó bao gồm cả Bản đồ nền, bình đồ ảnh, bản đồ biển và các loại bản đồ khác. Trên bản đồ, hình ảnh của các yếu tố tập hợp địa lý đảm bảo các thông tin chuyên đề có tính không gian và định vị Chúng cho ta biết sự định hướng, vị trí địa lý của các đối tượng, hiện tượng. Ngoài ra người ta còn xác định khối lượng tên gọi, ghi chú, chữ số cần thiết phân bố trên bản đồ. Kết quả của thiết kế BĐCĐ là chỉ ra các yếu tố nội dung, phân loại chúng và phác thảo chú giải bản đồ, sơ đồ biên tập, các makét, các chỉ dẫn tổng quát hoá nằm trong kế hoạch biên tập bản đồ. Lựa chọn phương pháp biểu thị bản đồ, thiết kế hệ thống ký hiệu có ý nghĩa quan trọng trong thành lập BĐCĐ. Trên các bản đồ này, chúng ta bắt gặp tất cả các phương pháp cơ bản thể hiện bản đồ và dạng biến điệu, kết hợp giữa chúng. Lựa chọn và áp dụng cách biểu thị các đối tượng, hiện tượng nghĩa là - Đặt ra nguyên tắc mô hình hoá toán học cấu trúc không gian – lãnh thổ các đối tượng và các yếu tố của nó cũng như cụ thể hoá, chi tiết hoá các thông tin địa hình, định vị. - Chọn dạng hệ thống ký hiệu để thể hiện các thông tin chất lượng và một số đặc tính không gian, xác định các thông số của ký hiệu và truyền đạt chúng trong các yếu tố cấu trúc để tương ứng với thông tin. - Xác định nguyên tắc kết hợp trong biểu thị các đối tượng, hiện tượng của các yếu tố cấu trúc thành phần số lượng và chất lượng. Soạn thảo thiết kế bản chú giải BĐCĐ được thực hiện trong toàn bộ quá trình chuẩn bị biên tập. Bước đầu tiên của sơ thảo, phác thảo bảng chú giải là nhóm các đối tượng và phân loại chúng, soạn thảo hệ thống ký hiệu đồng thời với việc lựa chọn phương pháp biểu thị cho bản đồ. Khi kết thúc thiết kế phải bố trí, sắp xếp nó trong khung, trên diện tích của bản đồ. Bảng chú giải được dùng khi sử dụng bản đồ. Bảng chú giải cũng có thể được soạn thảo như một tài liệu cho quá trình thành lập bản đồ. Bảng chú giải được sử dụng khi thiết kế nội dung bản đồ, bản thân nó là kết quả của quá trình thiết kế nó. Bảng chú giải dùng để đọc và phân tích BĐCĐ. Bảng ký hiệu quy ước là tài liệu đồ hoạ bắt buộc phải có trong thiết kế kỹ thuật bản đồ. Khi soạn thảo bảng chú giải, mẫu tổng quát hoá, trích mảnh bản đồ đồng thời người ta cũng thiết kế trình bày bản đồ, đặt ra các quyết định có tính nguyên tắc với bản đồ. Còn phần thực hiện trình bày bản đồ có thể được hoàn thiện ở giai đoạn sản xuất sau. Nhưng ở đây cũng vẫn phải tiến hành các thử nghiệm để chọn ra phương án tối ưu về thể hiện đường nét và màu sắc trong trình bày bản đồ. Như vậy, để lựa chọn được hướng giải quyết tối ưu trong thiết kế BĐCĐ cần dựa trên cơ sở - Thực hiện các công việc nghiên cứu, biên tập và thử nghiệm từng bước trong quá trình soạn thảo nội dung bản đồ và trình bày màu sắc. - Tiến hành xử lý các tư liệu nội dung chuyên đề và cơ sở địa lý để rút ngắn và hoàn thành công nghệ của các giai đoạn thành lập bản gốc và chuẩn bị in bản đồ. B/ Đặc điểm thành lập BĐCĐ Những đặc điểm chính của thành lập BĐCĐ gồm có - Trên bản gốc biên vẽ bản gốc tác giả người ta nhận được hình ảnh nội dung chuyên đề và các yếu tố đặc điểm địa lý. - Các bản gốc nội dung chuyên đề là sản phẩm của các cơ quan khác nhau, tổ chức khác nhau không thuộc ngành bản đồ do đó đòi hỏi ở mức độ khác nhau. Bản gốc biên vẽ có thể thành lập ở dạng tách riêng bản gốc nội dung chuyên đề + nền cơ sở địa lý hay tổng hợp. Thành lập các bản gốc nội dung chuyên đề có thể là các cơ quan chuyên ngành và phi bản đồ hay các cơ quan thuộc chuyên ngành trắc địa - bản đồ. Không phụ thuộc là BĐCĐ được thành lập ở đâu, những bản gốc này phải thành lập trên phép chiếu bản đồ đã xác định, bằng hệ thống ký hiệu quy ước và nội dung nền, nét cần phải tương ứng với bảng chú giải đã soạn thảo. Những yêu cầu này là tiêu chuẩn, là bắt buộc đối với tác phẩm bản đồ. Trong thực tế các bản gốc nội dung chuyên đề có thể chưa đáp ứng được yêu cầu đã nêu trên thì trong qúa trình thành lập bản gốc biên vẽ hay chuẩn bị in bản đồ người ta có thể tiến hành chỉnh sửa cho đáp ứng yêu cầu bản đồ phép chiếu, kích thước ký hiệu, màu sắc trình bày,.... Nếu chất lượng bản gốc nội dung chuyên đề không tốt chất lượng đồ hoạ kém, nội dung không chính xác,..., không thể sử dụng được, chỉ có thể trả lại và yêu cầu cung cấp các tư liệu khác cho thành lập BĐCĐ. Cơ quan bản đồ có thể đặt hàng, yêu cầu với các cơ quan hữu quan và bộ phận cung cấp tư liệu để thực hiện các công việc sau - Tiếp nhận các bản gốc nội dung chuyên đề thể hiện chính xác vị trí không gian của đối tượng và được thành lập bằng hệ thống ký hiệu đã xác định nhưng có thể khác các thông số cần cho bản đồ mới phép chiếu, kích thước ký hiệu,.... - Tiếp nhận các xử lý sơ bộ các bản gốc nội dung chuyên đề. Việc lựa chọn sơ đồ công nghệ thực hiện các công việc dựa trên cơ sở xác định chỉ dẫn thành lập đã nêu trên thành lập bản gốc tách hay tổng hợp, sử dụng các bản gốc nội dung chuyên đề đã xử lý hay chỉ dùng các makét, sơ đồ. Chuẩn bị in và in BĐCĐ thông thường được thực hiện theo sơ đồ công nghệ. Theo khả năng có thể chuẩn bị bản gốc thanh vẽ trên điamát, trên màng khắc hay dựa trên kết quả thành lập bản đồ số trên máy tính điện tử. Đặc điểm của thành lập BĐCĐ là áp dụng, sử dụng một số lượng màu lớn trong thành lập, chuẩn bị in và in bản đồ, do đó cần nhiều bản gốc thanh vẽ, các phụ lục kèm theo và công việc in càng phức tạp khi nội dung BĐCĐ phức tạp, phong phú. Đặc điểm thiết kế và thành lập bản đồ chuyên đề bằng tư liệu ảnh vệ tinh Vào những thập kỷ 70, công việc thăm dò và nghiên cứu vũ trụ đã có những bước tiến nhảy vọt. Các kết quả của nó đã được áp dụng vào các lĩnh vực khác nhau trong khoa học, kinh tế sản xuất và quốc phòng. Trong khoa học trắc địa - bản đồ, các ảnh vũ trụ, ảnh vệ tinh ngày càng có nhiều ứng dụng trong nghiên cứu khoa học và thực tế sản xuất bản đồ. Sử dụng ảnh vũ trụ trong sản xuất và hiệu chỉnh bản đồ là một trong những phương hướng phát triển mới của bản đồ học. Nó được phát triển toàn diện cùng với những thành tựu của khoa học điện tử, viễn thông, điều khiển học,... Hiện nay, ảnh vũ trụ có thể nhận được từ 2 hệ thống khác nhau - Hệ thống chụp ảnh trên các vật liệu ảnh. - Hệ thống phi chụp ảnh sử dụng các sóng vô tuyến, tia hồng ngoại, tia lazer, tia quét để nhận ảnh theo nguyên tắc thu phát. Các ảnh vũ trụ có độ phân giải cao, sẽ có độ biến dạng hình học ít hơn, cung cấp các thông tin tốt hơn và có tính đo được cao hơn. Để có được các tấm ảnh này người ta phải sử dụng các máy ảnh chuyên dụng nhiều kênh. Máy ảnh nhiều kênh này dùng để chụp ảnh đồng thời nhiều vùng quang phổ khác nhau. Để nhận được ảnh ở vùng sóng hồng ngoại, người ta dùng máy chụp ảnh, còn sóng trung bình và dài – sóng vô tuyến truyền hình. Cách thu nhận ảnh và các nguyên tắc thu nhận ảnh bằng các thiết bị chuyên dụng khác nhau ta có thể xem trong chương trình “Trắc địa ảnh”. Ở đây, chúng ta chỉ xem xét một số yếu tố, nhân tố sử dụng ảnh vũ trụ để thành lập bản đồ bề mặt trái đất, các hành tinh. Sử dụng ảnh vũ trụ trong khoa học Trắc địa - bản đồ cần phải giải quyết một số vấn đề sau Thu nhận các ảnh vũ trụ chất lượng cao. Thành lập và tăng dày các điểm khống chế cần thiết cho thực hiện các công việc đo vẽ ảnh và bản đồ. Nghiên cứu hiệu quả sử dụng ảnh vũ trụ. Nghiên cứu các tính chất hình học, thể hiện hình ảnh, soạn thảo phương pháp điều vẽ. Soạn thảo phương pháp xác định toạ độ và biến đổi ảnh vũ trụ. Soạn thảo các vấn đề về phương pháp luận bản đồ hoá trái đất và các hành tinh nghiên cứu đặc điểm bề mặt, soạn thảo cơ sở toán học, xác định các dạng bản đồ và nội dung của chúng.... Nhiệm vụ của công tác bản đồ sử dụng ảnh vũ trụ là Soạn thảo các phương pháp biến đổi ảnh vũ trụ lên phép chiếu bản đồ đã lựa chọn. Xác định hệ thống toạ độ. Xử lý ảnh để chất lượng ảnh tốt hơn bằng các thiết bị chuyên dụng và các công nghệ ảnh số. Biến đổi các hình ảnh nửa tông sang dạng đường nét. Soạn thảo các phương pháp điều vẽ, đoán đọc ảnh để nhận được khối lượng thông tin lớn nhất từ ảnh. Các phương pháp sử dụng và biến đổi ảnh vũ trụ Các ảnh vũ trụ có thể được sử dụng ở dạng bình đồ ảnh, sơ đồ ảnh bằng cách xử lý chúng trên các máy đo vẽ ảnh. Theo ảnh vũ trụ, người ta nhận biết các đối tượng và xác định toạ độ của chúng, chuyển chúng lên hình ảnh bản đồ. Xác định tọa độ của các đối tượng đã nhận biết bằng phương pháp phân tích, đồ hoạ, phân tích đồ hoạ. Nó có thể xảy ra 2 trường hợp Các yếu tố định hướng của ảnh dễ nhận biết hoặc đã được xác định trước. Không có các yếu tố định hướng. Dùng công thức biến đổi xác định toạ độ các điểm định hướng từ toạ độ của các điểm khống chế cho trước. Trên mỗi tấm ảnh ít nhất người ta cũng phải xác định được 3 – 4 điểm khống chế, định hướng. Sau khi có các điểm khống chế, định hướng trên các ảnh vũ trụ người ta tiến hành nắn ảnh. Nắn ảnh là biến đồi hình ảnh trên ảnh vũ trụ lên phép chiếu bản đồ đã chọn. Công việc nắn ảnh được tiến hành trên các thiết bị chuyên dụng, máy tính điện tử và các phần mềm chuyên dụng. Công việc nắn ảnh hoàn thành, dựa theo các phương pháp điều vẽ, đoán đọc ảnh để người ta chính xác hoá và chuyển đổi hình ảnh từ ảnh vũ trụ sang hình ảnh bản đồ. Nói chung, công việc sử dụng ảnh vũ trụ để đo vẽ và làm ảnh bản đồ là công việc rất khó khăn phức tạp bởi vì phép chiếu dùng cho ảnh vũ trụ là phép chiếu tự do, dẫn xuất độ biến dạng về góc, độ dài, diện tích lớn. Chính vì thế, hiện nay người ta mới chỉ sử dụng ảnh vệ tinh, vũ trụ để thành lập các bản đồ tỷ lệ nhỏ và một số ở tỷ lệ trung bình với các vùng có nội dung không quá phức tạp. ***** CHƯƠNG 7 SỬ DỤNG BẢN ĐỒ Khái niệm chung Sử dụng bản đồ - đó là một bộ phận của bản đồ học, trong đó nghiên cứu những đặc điểm và phương hướng sử dụng các tác phẩm bản đồ bản đồ, tập bản đồ… trong các phạm vi khác nhau của hoạt động thực tiễn, nghiên cứu khoa học, thiết lập các phương pháp sử dụng bản đồ, đánh giá độ tin cậy và độ chính xác của các kết quả thu nhận được từ bản đồ. Mục đích của sử dụng bản đồ chính là để nhận thức thực tế khách quan nhằm thu được từ bản đồ những đặc trưng chất lượng và số lượng của hiện tượng được biểu thị trên bản đồ; nghiên cứu những mối quan hệ tương tác và động thái của các hiện tượng; dự đoán sự xuất hiện, sự phân bố và phát triển của chúng. Bản đồ được sử dụng trong tất cả các ngành khoa học về trái đất và trong nhiều khoa học xã hội, trong quy hoạch, trong xây dựng và trong các ngành kinh tế. Các phương pháp xác định một số yếu tố trên bản đồ 1. Mô tả theo bản đồ Đó là sự trình bày ở dạng bài viết các kết quả phân tích về chất lượng của các hiện tượng và quá trình thể hiện trên bản đồ. 2. Các phương pháp đồ giải Đó là phương pháp dựng theo bản đồ các lát cắt, mặt cắt, đồ thị, biểu đồ và những mô hình hình vẽ hai chiều và ba chiều khác. 3. Các phương pháp đồ giải, giải tích Là phương pháp đo trên bản đồ các toạ độ, độ dài, độ cao, diện tích, thể tích, góc và từ đó tính toán được chỉ số hình thái và cấu trúc của các đối tượng và hiện tượng. Các phương pháp đồ giải giải tích bao gồm các phương pháp đo đạc bản đồ và các phương pháp đo đạc hình thái. 4. Các phương pháp lập mô hình bản đồ toán Đó là những phương pháp dựng và phân tích các mô hình toán học dựa theo các số liệu thu nhận được từ bản đồ và lập ra các bản đồ dẫn xuất mới trên cơ sở mô hình toán học đó. Trong thực tế, các phương pháp nói trên thường được sử dụng kết hợp, ví dụ sự phân tích có thể được bắt đầu bằng mô tả hiện tượng theo bản đồ, tiếp theo tiến hành đo đạc trên bản đồ và kết thúc ở việc lập mô hình bản đồ toán. Theo mức độ cơ giới hoá và tự động hoá, các phương pháp sử dụng bản đồ được phân ra thành 4 nhóm sau 1/ Phân tích trực quan Bao gồm đọc bản đồ, so sánh trực quan và đánh giá trực quan các đối tượng. 2/ Phân tích bằng dụng cụ Đó là việc sử dụng các dụng cụ đo và các trang bị cơ học compa đo, các ô lưới, máy đo diện tích… trong sử dụng bản đồ. 3/ Các phương pháp nửa tự động Đó là việc ứng dụng máy tính điện tử và các thiết bị tự động để thu nhận, tính toán, phân tích các số liệu từ bản đồ có sự kết hợp với phân tích trực quan và phân tích bằng dụng cụ thông thường. 4/ Tự động hoá nghiên cứu bản đồ Đó là việc tự động hoá hoàn toàn quá trình sử dụng bản đồ. Xác định một số chỉ tiêu hình thái Đo đạc hình thái là một phần của hình thái học mà nội dung chủ yếu của nó là nghiên cứu các đặc trưng số lượng của dáng đất. Từ các kết quả thu được bằng các phương pháp đo đạc bản đồ, người ta có thể tính được các chỉ số khác nhau đặc trưng cho hình thái và cấu trúc của các đối tượng, ví dụ như sự cắt xẻ của dáng đất, độ cao trung bình, góc nghiêng trung bình, độ cong của các đường nét Dưới đây giới thiệu một số chỉ số đo đạc hình thái cơ bản 1. Các chỉ số cắt xẻ bề mặt Sự cắt xẻ bề mặt được đặc trưng bằng hai chỉ số cắt xẻ đứng và cắt xẻ ngang. a. Chỉ số cắt xẻ đứng Sự cắt xẻ của bề mặt theo chiều đứng thì được đặc trưng bằng biên độ độ cao trong phạm vi của một khu vực nào đó hmax = Hmax - Hmin Tính toán chỉ số cắt xẻ đứng có thể theo từng đơn vị phân ở lãnh thổ ví dụ theo từng lưu vực sông hoặc theo mạng lưới ô vuông Trị số hmax có thể được gắn cho điểm trung tâm của đơn vị lãnh thổ, từ đó có thể lập được bản đồ cắt xẻ đứng được thể hiện bằng phương pháp đồ giải hoặc phương pháp đường đẳng trị. b. Chỉ số cắt xẻ ngang Cắt xẻ ngang được đặc trưng bằng mật độ cắt xẻ D của bề mặt, xác định theo công thức sau Trong đó l- tổng độ dài của các đường cắt xẻ P- diện tích của khu vực Đối với bề mặt dáng đất, các đường phân thuỷ và các đường thuỷ chính là các đường cắt xẻ. Chỉ số cắt sẻ ngang được tính theo từng vùng tự nhiên, theo các lưu vực sông hoặc theo ô lưới. Trong nhiều trường hợp người ta tính riêng mật độ của lưới sông ngòi hay Trong đó P- diện tích của khu vực. tổng độ dài của sông ngòi trong khu vực. 2. Độ cao trung bình Độ cao trung bình của bề mặt thường được xác định theo công thức Trong đó H1 là độ cao của các điểm được phân bố đều trên bề mặt. 3. Góc nghiêng trung bình Góc nghiêng trung bình của bề mặt được tính theo công thức sau Trong đó - là tổng độ dài của các đường bình độ trong khu vực. - h là khoảng cao đều. - P là diện tích của khu vực. 4. Độ cong của các đường cong Trong nhiều trường hợp, người ta dựa trên bản đồ để nghiên cứu độ cong của các yếu tố đường nét ví dụ như sông ngòi, bờ biển. Để xác định độ cong thì có thể dùng ba loại chỉ số sau đây a. Độ cong tương đối Đó là tỉ số giữa độ dài l của đường cong và độ dài s của đường bao đều đặn hình b. Độ cong của hình dạng chung Đó là tỉ số giữa độ dài s của đường bao và độ dài d của đoạn thẳng nối điểm đầu và điểm cuối của đường cong Hình ~hình 48 T155_BG BĐH c. Độ cong chung Độ cong chung được tính theo công thức sau đây Trong 3 chỉ số độ cong nói trên, chỉ số độ cong tương đối được sử dụng nhiều hơn vì nó phản ánh khách quan sự uốn cong của đường nét. Ngoài các chỉ số hình thái nói trên, còn có nhiều chỉ số hình thái khác. Độ chính xác của bản đồ và độ chính xác kỹ thuật Trong thực tế sử dụng bản đồ, vấn đề đánh giá độ chính xác và độ tin cậy của các kết quả nghiên cứu là đặc biệt quan trọng và phức tạp. Chính mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra những yêu cầu đối với độ chính xác của kết quả nghiên cứu. Xuất phát từ những yêu cầu đó người ta tiến hành lựa chọn các tài liệu bản đồ gốc, các biện pháp kỹ thuật, phương pháp nghiên cứu Độ chính xác bản đồ, độ chính xác kỹ thuật là những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến độ chính xác của kết quả nghiên cứu. 1. Độ chính xác bản đồ Độ chính xác bản đồ là chỉ số đặc trưng cho độ chính xác xác định các trị số lượng trên bản đồ bằng các dụng cụ lý tưởng và trong những điều kiện lý tưởng. Đối với các bản đồ địa hình tỷ lệ lớn và trung bình, sai số trung phương vị trí mặt bằng của điểm đường viền được tính theo công thức Trong đó là các sai số thành phần n- là số các sai số Các sai số thành phần là các sai số nảy sinh ra trong các giai đoạn khác nhau của quá trình sản xuất bản đồ, kể từ giai đoạn đo khống chế cho tới khi in xong bản đồ. Ngoài ra còn bao gồm sai số do sự co giãn của giấy. Tương tự như vậy ta có công thức tính sai số độ cao là Trên các bản đồ tỷ lệ lớn và trung bình thì sai số trung phương vị trí mặt bằng mL ở trong phạm vi 0,5 đến 0,75 mm; sai số trung phương độ cao mH ở trong phạm vi 0,3 - 0,5h. Do đó, sai số giới hạn có thể đạt tới các đại lượng sau 2. Độ chính xác kỹ thuật Độ chính xác kỹ thuật của các kết quả đo đạc trên bản đồ chủ yếu phụ thuộc vào độ chính xác đo và độ chính xác tính toán, độ chính xác của các dụng cụ đo, của dụng cụ tính toán và phụ thuộc vào các phương pháp tiến hành công tác đo đạc trên bản đồ. Sai số trung phương của một trị đo được tính theo công thức ; Trong đó - AT Trị số thực của đại lượng cần đo - ai Kết quả một lần đo Khi đó sai số quân phương trung bình của kết quả một loạt các trị đo sẽ là Nhưng trị số AT thường không biết, do đó các công thức thực dùng để tính m và M là Trong đó - ATb là trị số trung bình của n kết quả đo Trong thực tế sử dụng bản đồ thì thường lấy sai số giới hạn là TÀI LIỆU THAM KHẢO Các file đính kèm theo tài liệu nàyGiáo trình Bản đồ Xem chi tiết tài liệu Giáo trình Bản đồ học Giáo trình Bản đồ học gồm 6 chương, cung cấp cho sinh viên những kiến thức cơ bản về Bản đồ và giới thiệu một số phần mềm chuyên dụng dùng để thành lập bản đồ số hiện nay. Tác giả Bùi Thu Phương Ngôn ngữ NXB Luợt xem 4756 Chú ý Nếu File đính kèm quá lớn, bạn có thể không xem trực tuyến được. Hãy tải về máy tính của mình theo Link bên dưới. Các tài liệu liên quan kết quả 1 - 7 trong tổng số 7 cho Các tài liệu Liên quan Giới thiệu Giáo trình Bản đồ học gồm 6 chương, cung cấp cho sinh viên những kiến thức cơ bản về Bản đồ và giới thiệu một số phần mềm chuyên dụng dùng để thành lập bản đồ số hiện nay. Chia sẻ Bùi Thu Phương Lượt xem 4757 Ngày 21/04/2015 Giới thiệu Để tiếp cận với quy trình công nghệ thành lập bản đồ số đã và đang được các cơ sở sản xuất sử dụng, chúng tôi đã đưa vào giáo trình này một số phần mềm thành lập bản đồ địa hình, địa chính từ khâu đo ... Giới thiệu Giáo trình Tăng dày khống chế ảnh được biên soạn trên cơ sở các bài giảng và giáo trình đã được xuất bản và sử dụng trong giảng dạy cho sinh viên cao đẳng thuộc chuyên ngành Trắc địa Bản đồ trong nhiề... Giới thiệu Giáo trình “Ứng dụng GNSS trong thành lập, hiện chỉnh và sử dụng bản đồ” được biên soạn theo đề cương chi tiết học phần chương trình đào tạo ngành Kỹ thuật Trắc địa - Bản đồ, bậc Cao học của Trườn... Giới thiệu Chia sẻ Lê Cảnh Tuân Lượt xem 1627 Ngày 21/05/2015 Giới thiệu MÃ SỐ Giới thiệu Trang Liên kết Thông kê truy cập Số lượt truy cập688470 Số người Online71

giáo trình bản đồ học