5h30 sáng 10-10, Đài Truyền hình Việt Nam phát sóng thử nghiệm và dự kiến ngày 13-10 phát sóng chính thức kênh truyền hình VTV Cần Thơ - kênh truyền hình quốc gia phục vụ đồng bào Tây Nam Bộ và người dân cả nước quan tâm đến khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. (Chinhphu.vn) - Văn phòng Chính phủ vừa ban hành Thông báo 317/TB-VPCP ngày 5/10/2022 kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại Hội nghị "Phát triển thị trường khoa học và công nghệ đồng bộ, hiệu quả, hiện đại và hội nhập". Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên . Photo VTC. Xem bình luận. Print. Một phái đoàn của Việt Nam do Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên làm trưởng đoàn mới tham dự Hội nghị Bộ trưởng Khuôn khổ Kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương vì Sự thịnh vượng Lãnh đạo các Sở Giáo dục và Đào tạo, Lao động - Thương binh và Xã hội 4 tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà Giang, Quảng Ninh (Việt Nam) tham gia ký kết Bản ghi nhớ. Hằng năm, tỉnh Quảng Tây cấp cho 4 tỉnh biên giới Việt Nam mỗi tỉnh từ 18 - 25 suất học bổng đào tạo trình Sau đó ông bỏ đi dạy tư, làm văn và làm báo để kiếm sống. 2. Nhà phê bình - nhà nghiên cứu Chu Văn Sơn. - Quê quán: Phường Đông Hương, thành phố Thanh Hóa - Giảng viên Đại hoc Sư phạm Ha Nội 1, bộ môn: Văn học hiện địa và đương đại. Tác phẩm Tiếng thu Vay Tiền Trả Góp 24 Tháng. Nghị Luận Tây Tiến ❤️️ 15 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất ✅ Giới Thiệu Những Văn Mẫu Đặc Sắc Về Tác Phẩm Nổi Tiếng Của Nhà Thơ Quang Dũng. Dàn Ý Nghị Luận Tây TiếnNghị Luận Tây Tiến Kết BàiNghị Luận Tây Tiến Học Sinh Giỏi – Bài 1Nghị Luận Tây Tiến Ngắn Gọn – Bài 2Bài Văn Nghị Luận Tây Tiến Đặc Sắc – Bài 3Văn Mẫu Nghị Luận Tây Tiến Chọn Lọc – Bài 4Bài Văn Nghị Luận Tây Tiến Đạt Điểm Cao – Bài 5Bài Văn Nghị Luận Tây Tiến Ấn Tượng – Bài 6Nghị Luận Tây Tiến Đoàn Binh Không Mọc Tóc – Bài 7Nghị Luận Tây Tiến Hay Nhất – Bài 8Văn Nghị Luận Tây Tiến Chi Tiết – Bài 9Nghị Luận Tây Tiến 8 Câu Đầu – Bài 10Nghị Luận Tây Tiến 14 Câu Đầu – Bài 11Nghị Luận Tây Tiến Đoạn 1 – Bài 12Nghị Luận Tây Tiến Đoạn 2 – Bài 13Nghị Luận Tây Tiến Đoạn 3 – Bài 14Nghị Luận Tây Tiến Đoạn 4 – Bài 15 Cùng tham khảo bài văn Dàn Ý Nghị Luận Tây Tiến được nhiều bạn quan tâm sau đây để triển khai bài văn đầy đủ ý. I. Mở bài Giới thiệu một số nét tiêu biểu về tác giả Quang Dũng và đặc trưng thơ ca của ông vừa hồn nhiên vừa tinh tế, mang vẻ đẹp hào hoa, phóng khoáng, đậm chất lãng mạn.Nêu một số nét khái quát về bài thơ Tây Tiến hoàn cảnh ra đời, giá trị nội dung nổi bật của bài thơ. II. Thân bài Nỗi nhớ của Quang Dũng về núi rừng Tây Bắc hùng vĩ và Tây Tiến anh hùngĐêm vui liên hoan văn nghệ và bức tranh sông nước miền Tây Bắc hư ảoChân dung người lính Tây Tiến hào hùng mà vẫn lãng mạn hào hoa, sự hy sinh mất mátHình ảnh thật chân thực về binh đoàn Tây Tiến“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc” hóa chất bom đạn của kẻ thù đã làm cho mái tóc người lính không còn đẹp nữa, nhưng cũng có thể là người lính chủ động cắt tóc để thuận tiện cho sinh hoạt.“Quân xanh màu lá dữ oai hùm” màu xanh của lớp áo ngụy trang lẫn với màu xanh của lá cây, nhưng đó cũng được hiểu là khuôn mặt xanh xao của người lính khi bị sốt rét rừng.=> Sự khó khăn, gian khổ của người lính Tây Tiến trong hoàn cảnh chiến tranh. – Mạnh mẽ là thế, nhưng cũng có đôi lúc người lính cũng đầy thơ mộng Sự mất mát hy sinh của người lính“Rải rác biên cương mồ viễn xứ” đó không phải là một cái chết mà rất nhiều cái chết.“Áo bào thay chiếu anh về đất” hình ảnh “áo bào” chính là chiếc áo lính các anh đang mặc, “về đất” cách nói giảm nói tránh gợi sự hy sinh của người ảnh cuối cùng “sông Mã gầm lên khúc độc hành” là sự thành kính đưa tiễn các anh. III. Kết bài Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, cảm nhận chung về nội dung của bài thơ. Chia Sẻ Bài 💧 Dàn Ý Tây Tiến Khổ 1 2 3 ❤️️ Bên Cạnh Bài Nghị Luận Tây Tiến Nghị Luận Tây Tiến Kết Bài Giới thiệu đến bạn đọc những mẫu Nghị Luận Tây Tiến Kết Bài để tham khảo dưới đây. Mẫu 1 Với bút pháp tài hoa và giàu tình, nhà thơ đã xây dựng hình ảnh những chiến binh Tây Tiến không chỉ mang vẻ dữ dội, mãnh liệt mà còn mang vẻ đẹp hào hoa, hào hùng thật bi tráng. Và Tây Tiến không chỉ phổ đúng hồn thơ Quang Dũng mà còn sáng lên chất thẩm mĩ hiếm thấy. Mẫu 2 Bài thơ Tây Tiến đã rất thành công khi tái hiện thành công vẻ đẹp thiên nhiên, con người nơi núi rừng Tây Bắc, đồng thời khắc họa vẻ đẹp trẻ trung, lạc quan, tâm hồn lãng mạn cùng bức tượng đài bi tráng về người lính Tây Tiến. Tây Tiến khép lại trong âm hưởng hào hùng, bi tráng như một khúc tráng ca về một thời đạn bom đã đi qua nhưng còn sống mãi trong triệu triệu trái tim người Việt. Mẫu 3 Lấy cảm hứng từ cuộc sống chân thực mà chính bản thân tác giả trải qua,những chàng trai, những học sinh, sinh viên thành thị khoác áo lính. Thêm một lần nữa Quang Dũng đã đưa chúng ta về với tây Tiến với những kí ức vừa lãng mạn vừa bi tráng. Dưới ngòi bút hào hoa của Quang Dũng những hình ảnh về những người lính Tây Tiến vừa hồn hậu,giản dị lại hết sức khí đây ta cũng thấy được những vẻ đẹp bi tráng của những chiến binh tây tiến, cảm nhận được như thế chúng ta càng thêm yêu hơn những con người vì quê hương đất nước. Đón Đọc🌿Phân Tích Khổ 1 Tây Tiến ❤️️ Ngoài Mẫu Nghị Luận Tây Tiến Nghị Luận Tây Tiến Học Sinh Giỏi – Bài 1 Nghị Luận Tây Tiến Học Sinh Giỏi, cùng đón đọc bài văn mẫu hay được chia sẻ sau đây. Thiên nhiên núi rừng Tây Bắc thơ mộng trữ tình là thế nhưng ẩn sau đó là vẻ hoang sơ với đầy những hiểm nguy đang rình rập. Trước cảnh hùng vĩ của non nước, hình tượng người lính Tây Tiến của Quang Dũng hiện lên như một tượng đài bất diệt, mang vẻ đẹp vừa hùng tráng vừa tài hoa lãng tử của những người con Hà thành. Bài thơ Tây Tiến đã tái hiện chân thực lại sự tàn khốc của chiến tranh, những gian lao vất vả mà người lính phải trải qua trên chặng đường kháng chiến. Thế nhưng chưa bao giờ họ lùi bước trước khó khăn thử thách, những người lính vĩ đại ấy vẫn sống lạc quan yêu đời và chiến đấu anh dũng kiên cường. Quang Dũng 1921 – 1988 tên thật là Bùi Đình Diệm, quê gốc ở Hà Tây nay là Hà Nội. Ông là người nghệ sĩ đa tài vừa viết văn, làm thơ lại biết cả vẽ tranh, soạn nhạc. Thế nhưng nhắc đến Quang Dũng trước hết phải một nhà thơ tài hoa, giọng thơ ông vừa hồn nhiên, tinh tế lại không kém phần lãng mạn hào hoa, đặc biệt là khi ông viết về người lính Sơn Tây của mình. Mở đầu bài thơ tác giả đã tái hiện lại khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ mà mĩ lệ cùng với cuộc hành quân gian khổ của binh đoàn Tây Tiến. Những người lính trẻ chẳng ngại hiểm nguy họ cứ tiến về phía trước với tinh thần hồn nhiên, lạc quan của tuổi trẻ “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!/…/Mai Châu mùa em thơm nếp xôi ” Cảm xúc chủ đạo xuyên suốt tác phẩm đó là nỗi nhớ da diết của tác giả khi nghĩ về những kỷ niệm xưa, tại đơn vị cũ của mình. “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi” câu thơ cất lên như tiếng lòng nhà thơ, tiếng gọi tha thiết đầy tiếc nuối và chứa đựng đầy những hoài niệm trong quá khứ huy hoàng. Nhà thơ nhớ Tây Tiến bằng nỗi nhớ “chơi vơi” thật da diết, mênh mông và sâu nặng. Nỗi nhớ luôn thường trực, bao trùm lên cả không gian và trái tim người lính. Bức tranh thiên nhiên hiện lên thật sống động với những địa danh “sông Mã”, “Sài Khao”, “Mường Lát”, “Pha Luông”, “Mường Hịch”, “ Mai Châu” đây là những địa danh gắn bó với binh đoàn, là địa bàn hành quân của những người lính Tây Tiến. Một vùng đất xa xôi, hiểm trở nhiều lần tưởng chừng như làm lu mờ ý chí chiến đấu của người lính cụ Hồ, “sương lấp đoàn quân mỏi” địa hình núi cao cùng với những lớp sương dày đặc phủ kín lối đi, đoàn quân đang mệt mỏi giờ đây lại phải đối diện với cái lạnh cắt da của Tây Bắc. Địa hình núi non hiểm trở “dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm” đoạn đường đi cũng chẳng bằng phẳng dễ dàng, có đoạn lên cao gập ghềnh khúc khuỷu, có khi lại “thăm thẳm” như vực sâu chỉ cần một phút lơ đãng người lính có thể bỏ mạng ngay tức khắc. Sương dày che lấp tầm nhìn, đường đi nhỏ quanh co lại thêm sự trơn trượt của mặt đất, đoàn quân vẫn đi trong gian khổ từng hạt mưa phùn rơi xuống phảng phất cái lạnh buốt. Quang Dũng vận dụng nghệ thuật đối lập một cách tài tình để miêu tả sự dữ dội của núi rừng Tây Bắc “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” những câu thơ sinh động đầy sáng tạo gợi ra trước mắt người đọc khung cảnh cảnh thiên nhiên hùng vĩ, hoang vắng, bí hiểm với đầy rẫy những hiểm nguy “oai linh thác gầm thét”, đêm đêm “cọp trêu người”. Quang Dũng miêu tả thiên nhiên núi rừng rộng lớn mênh mông, hiểm trở như thế chính là để làm nổi bật lên hình tượng người lính trên chặng đường hành quân gian khổ, hy sinh của họ. Đoàn quân đã đi ròng rã nhiều ngày liền họ thật sự đã kiệt sức, lúc này đây “đoàn quân mỏi” cần được nghỉ ngơi để lấy lại sức lực, tinh thần bước tiếp. Hình ảnh “anh bạn dãi dầu không bước nữa” là cách nói giảm, nói tránh của Quang Dũng, có những người lính đã hy sinh nơi chiến trường chẳng thể nào bước tiếp cùng với đồng đội. Tác giả nhắc đến cái chết một cách gián tiếp để tránh gây nỗi đau quá sâu sắc, làm giảm di ý chí chiến đấu của đoàn quân. Những người lính thật đáng khâm phục họ sẵn sàng hy sinh quên mình cho Tổ quốc, họ trẻ trung ngang tàn và rất yêu đời “gục lên súng mũ bỏ quên đời”. Cái chết nhẹ tựa lông hồng chẳng thể làm người lính run sợ, tâm hồn họ vẫn bay bổng tinh nghịch xen lẫn sự lãng mạn tài hoa. Những khổ thơ tiếp theo tác giả gợi nhớ về những kỷ niệm đẹp, sâu nặng của tình quân và dân trong những đêm liên hoan tưng bừng náo nhiệt “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoaKìa em xiêm áo tự bao giờKhèn lên man điệu nàng e ấpNhạc về Viên Chăn xây hồn thơ Người đi Châu Mộc chiều sương ấyCó thấy hồn lau nẻo bến bờCó nhớ dáng người trên độc mộcTrôi dòng nước lũ hoa đong đưa” Binh đoàn Tây Tiến gắn bó với chiến trường suốt nhiều năm trời, có biết bao kỷ niệm hằn sâu trong tâm hồn mỗi con người. Sau những ngày chiến đấu vất vả, gian lao “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa” những chàng trai cô gái nắm tay nhảy điệu nhạc “e ấp” của dân tộc thiểu số vùng cao. Vẻ đẹp của con người nơi đây thật lung linh, bí ẩn có chút hoang dại làm say đắm tâm hồn biết bao người lính trẻ hào hoa, lãng tử nơi Hà thành. Cùng với đó là cảnh sông nước Tây Bắc một chiều sương thật lãng mạn nhưng phảng phất nét buồn, như nỗi khắc khoải lo lắng của nhà thơ trước vận mệnh của dân tộc, trước tình hình chiến sự đang đến hồi cam go quyết liệt. Chân dung người lính còn được tác giả miêu tả qua vẻ hào hoa, lãng tử. Họ đều là những chàng trai thành phố vì nghiệp lớn mà rời bỏ nơi nơi phồn hoa đô thị. Những chàng ấy đang còn tuổi trẻ rạo rực với những mộng tưởng, khát khao yêu đương “gửi mộng qua biên giới”, họ mơ về những cô gái Hà Nội xinh đẹp, dịu dàng như nàng Kiều. Tất cả tạo nên một hình ảnh người lính trẻ trung, yêu đời với những khát khao hạnh phúc mãnh liệt của tuổi trẻ. Đoạn thơ cuối vang lên mạnh mẽ, quyết liệt như lời khẳng định quyết tâm của đoàn binh, đó cũng là lời thề chung thành với tổ quốc sẵn sàng hy sinh vì độc lập dân tộc “Tây Tiến người đi không hẹn ướcĐường lên thăm thẳm một chia phôiAi lên Tây Tiến mùa xuân ấyHồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.” Người lính Tây Tiến kiên cường, tự tin thể hiện một tinh thần chiến đấu đầy nhiệt huyết “người đi không hẹn ước”, họ ra đi chẳng hẹn ngày trở lại, đi với khí thế sẵn sàng hy sinh để bảo vệ cho tổ quốc, cho độc lập dân tộc. Dù biết chặng đường có “thăm thẳm” chia phôi thế nhưng người lính đã thề với đất nước một lời thề sắc son “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”. Tâm hồn người lính dường như đã vượt qua những mơ ước cá nhân tầm thường, giờ đây họ mang trên vai mình trọng trách sứ mệnh vô cùng to lớn Sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng hy sinh cho độc lập dân tộc. Tây Tiến là bài thơ đặc sắc nhất góp phần đưa tên tuổi Quang Dũng lên một tầm cao mới của nghệ thuật. Với ngòi bút tài hoa, lãng mạn của mình Quang Dũng đã xây dựng thành công hình tượng người lính vừa bi tráng vừa tài hoa, hai chất thơ ấy không thể tách rời mà hoà quyện vào nhau tạo nên sức hấp dẫn cho tác phẩm. Hình tượng thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ được xây dựng làm nền góp phần tô đậm vẻ đẹp của người lính Tây Tiến lạc quan, yêu đời. Tham Khảo Thêm Bài 🌿 Phân Tích Tây Tiến ❤️️ Ngoài Bài Nghị Luận Tây Tiến Nghị Luận Tây Tiến Ngắn Gọn – Bài 2 Tham khảo bài văn Nghị Luận Tây Tiến Ngắn Gọn và súc tích được thể hiện qua từng câu văn, cách dùng từ ngữ linh hoạt. Quang Dũng là một nhà thơ rất đặc biệt, bởi ông không chỉ là một nhà thơ cầm bút sáng tác mà còn là một người lính cầm súng đánh giặc. Có lẽ bởi vì vậy mà những bài thơ của Quang Dũng luôn gắn liền với hình ảnh những người lính, cũng là những người đồng đội của ông. Nổi bật nhất trong các sáng tác của ông là bài thơ Tây Tiến. Với bút pháp lãng mạn xen lẫn với tả thực, bài thơ đã khắc họa thật thành công hình ảnh đoàn binh Tây Tiến với khí thế hiên ngang, tâm hồn thơ mộng trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp. Mở đầu bài thơ là tiếng gọi tha thiết với đoàn quân của mình được vang lên trong tâm thức của nhà thơ Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi!Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi.” Nhớ về đồng đội của mình, nhà thơ nhớ ngay đến con sông Mã, nó là con sông đã cùng những người chiến sĩ đi qua bao khó khăn, thử thách, là chứng nhân lịch sử cho cuộc chiến đấu anh dũng, oai hùng của các anh. Bởi lẽ, dòng sông Mã là con sông chảy dọc theo một loạt các địa điểm mà những người lính hành quân ở vùng biên giới phía Bắc Lai Châu, Lào Cai, Sơn La, Lạng Sơn. Mỗi một nơi dừng chân mà người lính đi qua, họ có thể không nhớ hết nhưng hình ảnh con sông luôn in hằn trong tâm thức của những người chiến sĩ. Nhớ về sông Mã, nhà thơ cất tiếng gọi thân thương “Tây Tiến ơi!” Nỗi nhớ như tràn về, nhà thơ nhớ núi rừng, nhớ những người bạn đồng hành trong những năm tháng gian lao, một nỗi nhớ chơi vơi không nắm bắt được. Bao nhiêu kỉ niệm dần hiện lên trong trí nhớ của Quang Dũng “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏiMường Lát hoa về trong đêm hơi.” Nếu ở hai câu thơ đầu, khi kí ức chưa rõ ràng, nhà thơ nhớ về hình ảnh hiện hữu nhiều nhất là con sông Mã thì ở đây, mọi thứ đã dần hiện ra rõ nét hơn. Tác giả nhắc lại những tên làng, tên bản, nơi những người chiến sĩ dừng chân. Đêm xuống, đoàn binh Tây Tiến đã thấm mệt sau cả một ngày dài chinh chiến. Trong khoảnh khắc dừng chân ngắn ngủi, người lính vẫn cảm nhận được thiên nhiên, núi rừng Tây Bắc thật thơ mộng, trữ tình “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”. Những chặng đường hành quân khó khăn, gian khổ khiến người lính mỏi mệt được khắc họa ở các câu thơ tiếp theo “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳmHeo hút cồn mây súng ngửi trờiNgàn thước lên cao ngàn thước xuốngNhà ai Pha Luông mưa xa khơi” Nhà thơ sử dụng một loạt các từ láy “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” như vẽ lên một khung cảnh thiên nhiên với địa hình hiểm trở, như thách thức sự chịu đựng của con người. Núi rừng Tây Bắc hoang vu, khó lường với những khó khăn chồng chất dọc trên đường hành quân của người lính. Nhà thơ đã rất khéo léo khi sử dụng biện pháp nghệ thuật đối lập “Ngàn thước lên cao” – “Ngàn thước xuống”, gợi tả độ cao cũng như độ sâu hiểm hóc, chỉ một bước sẩy chân cũng có thể để lại hậu quả khôn lường. Nhưng trong khó khăn ấy, qua con mắt của người lính, ta vẫn thấy có chút gì đó thật thơ mộng “súng ngửi trời”. Đứng trên độ cao có thể nhìn thấy mọi cảnh vật, người lính đánh mắt nhìn ra phía xa, thấy một căn nhà của bản làng như là nỗi nhớ với quê hương của mình “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.” Khổ thơ thứ hai của bài thơ là những kỉ niệm của người lính trong đêm liên hoan văn nghệ “Doanh trại bừng lên ngọn đuốc hoaKìa em xiêm áo tự bao giờKhèn lên man điệu nàng e ấpNhạc về Viêng Chăn xây hồn thơ” Cụm từ “bừng lên” gợi tả một không khí vui tươi, náo nhiệt, những người chiến sĩ cùng với người dân thắp sáng ngọn đuốc, làm nhà thơ liên tưởng đến hình ảnh “ngọn đuốc hoa”. Câu chữ, lời thơ tình tứ “kìa em” cho thấy cách xưng hô thân mật, gợi tả tình cảm thắm thiết giữa quân và dân. Người lính say mê những khúc hát, điệu nhảy của người dân tộc ở nơi đây. Đó là những khúc hát dân ca Thái, dân ca Lào. Tất cả như xây đắp nên tâm hồn người lính, khiến cho họ trở nên lãng mạn, bay bổng hơn bao giờ hết. Chất thơ của người chiến sĩ được thể hiện qua cái nhìn với thiên nhiên ở 4 câu thơ tiếp theo “Người đi Châu Mộc chiều sương ấyCó thấy hồn lau nẻo bến bờCó nhớ dáng người trên độc mộcTrôi dòng nước lũ hoa đong đưa” Hình ảnh “người đi” là sự chia tay của người lính với những người dân đã cưu mang họ, người lính ra đi trong một chiều sương mờ ảo. Trong làn sương ấy thấp thoáng những hình ảnh “cỏ lau”, “dáng người trên độc mộc” và đặc biệt là hình ảnh “hoa đong đưa”. Thiên nhiên hiện lên thật buồn, đó là nỗi buồn man mác, lưu luyến khi phải chia xa. Người lính phải tiếp tục lên đường làm nhiệm vụ. Nhà thơ Quang Dũng miêu tả hình ảnh chân dung người lính Tây Tiến thật ngang tàn ở khổ thơ cuối “Tây Tiến đoàn binh không mọc tócQuân xanh màu lá dữ oai hùmMắt trừng gửi mộng qua biên giớiĐêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” Chân dung người lính hiện lên thật khác lạ “không mọc tóc”. Nhà thơ đã đảo từ “không” lên phía trước, cách nói “không mọc tóc” chứ không phải “tóc không mọc” cho thấy tinh thần bất khuất, hiên ngang của người chiến sĩ Tây Tiến. Quân xanh màu lá ngụ ý chỉ làn da xanh xao của họ. Như vậy, người lính phải chịu những cơn sốt rét rừng, khiến cho làn da của họ không còn hồng hào mà trở nên xanh xao, gầy guộc cùng với mái tóc rụng hết. Trong hiện thực tàn khốc đó, người lính vẫn thản nhiên, ung dung với khí thế ngang tàn, không thèm mọc tóc. Nhưng nhà thơ Quang Dũng không chỉ miêu tả chân dung người lính Tây Tiến mà còn cho thấy tâm hồn của họ “Mắt trừng gửi mộng qua biên giớiĐêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” Người lính nhớ về quê hương tha thiết. Khi nhớ về quê hương, trong tâm thức của người chiến sĩ hiện ra hình ảnh “dáng kiều thơm”, đó có lẽ là hình ảnh người yêu, người đang mong ngóng ngày họ trở về. Nhưng họ cũng chẳng rõ ngày mình trở về có được toàn vẹn hay không “Rải rác biên cương mồ viễn xứ/…/Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi” Cái chết, sự ra đi vì quê hương, đất nước là minh chứng cho việc các anh đã chiến đấu hết mình. Ở nơi chiến trường kia, biết bao người lính đã hy sinh không tiếc tuổi xuân của mình cho dân tộc. Hình ảnh “áo bào thay chiếu” cho thấy sự tiếc thương của nhà thơ dành cho họ, các anh đã yên tâm về với đất mẹ thân thương, để được đất mẹ chở che mãi mãi. Chứng kiến chặng đường của người lính, nay lại chứng kiến cả cái chết của các anh, sông Mã như gầm lên đau xót, tiếng thét vang lên mang âm hưởng tiếc thương sâu sắc với cuộc đời còn dài ở phía trước của họ. Nhưng dù có biết trước rằng mình có thể sẽ hy sinh, người lính Tây Tiến vẫn chẳng thể nào bỏ cuộc, bởi thiên nhiên núi rừng Tây Bắc đã lấy đi tâm hồn, chiếm được trái tim của các anh mất rồi “Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấyHồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.” Bài thơ Tây Tiến với ba khổ thơ, lần lượt khắc họa những khó khăn, những khoảnh khắc vui tươi cũng như chân dung và tâm hồn người lính. Qua đó làm hiện lên cho ta hình ảnh một đoàn binh oai hùng, bất khuất trong thời kì chiến tranh. Ta thầm cảm ơn những anh hùng ấy vì đã chiến đấu ngoan cường, đem về cho đất nước nền độc lập như ngày hôm nay. Ngoài bài Nghị Luận Tây Tiến mời bạn xem nhiều hơn 🌼Cảm Nhận Khổ 1 Tây Tiến ❤️️ Ngắn Bài Văn Nghị Luận Tây Tiến Đặc Sắc – Bài 3 Bài Văn Nghị Luận Tây Tiến Đặc Sắc được chọn lọc và chia sẻ đến các bạn đọc sau đây. Chiến tranh, người lính luôn là đề tài không bai giờ cũ đối với những nghệ sỹ thời chiến. Chúng ta bắt gặp hình ảnh những người lính trong “Đồng chí” của Chính Hữu, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật. Nhưng có lẽ ấn tượng, trữ tình và chân thực là hình ảnh người lính trong bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng. Với cách khắc họa hình tượng người lính thành công, người đọc đã không thể quên được hình ảnh những người lính cụ hồ thời kì kháng chiến chống pháp. Bài thơ cũng chính là nỗi nhớ của chính tác giả về những năm tháng chiến tranh ác liệt nơi chiến trường xưa. Bài thơ được mở đầu bằng một tiếng gọi tha thiết Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơiNhớ về rừng núi nhớ chơi vơi Phù Lao Chanh là mảnh đất mà trước đây đoàn quân đã từng đi qua. Quang Dũng cùng rất nhiều thanh niên khác ở Hà Thành đã xếp bút nghiên lên đường ra chiến trường theo tiếng gọi của tổ quốc. Câu thơ cất lên như một tiếng gọi tha thiết về quá khứ từng trải qua. Sông Mã là con sông lớn, in dấu nhiều cuộc chiến tranh đổ lửa cũng như để lại bao nhiêu hoài niệm thời xa vắng của tác giả. Nỗi nhớ trong lòng tác giả là một nỗi nhớ “chơi vơi”. Một từ ngữ rất nhẹ nhưng dường như lại khiến cho nỗi nhớ thêm đầy, không thể nào vơi đi bớt. Quang Dũng đã cụ thể hóa nỗi nhớ đó bằng những hình ảnh còn đọng lại trong ký ức về vùng đất chiến tranh ác liệt này Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi /…/ Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi. Với những địa danh quen thuộc như “Sài Khao” và “Mường Lát” gợi nhớ về những năm tháng chiến tranh đó. Hai câu thơ với giọng rất êm, hình ảnh rất thi vị, nhẹ nhàng khiến cho người đọc cảm nhận được sự thi vị và lắng sâu. Đoàn quân Tây Tiến hành quân trong khói sương mù mịt, cái lạnh dường như len lỏi vào sâu trong tim. Một khung cảnh lãng mạn, trữ tình giữa chiến tranh ác liệt thật khiến nhiều người ngưỡng mộ. Đó chính là một sự cảm nhận tinh tế và sâu sắc về thiên nhiên giữa núi rừng thăm thẳm. Giữa thiên nhiên thơ mộng, trữ tình, hình ảnh kì vĩ, bao la của thiên nhiên và đất trời được phác họa qua nét bút của tác giả khiến cho người đọc cảm nhận được cuộc sống gian khổ, cuộc chiến khó khăn của đoàn quân. Từ ngữ “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” đã phần nào diễn tả được sự gồ ghề, khó khăn, khập khiễng của núi rừng. Có cảm giác như đoàn quân phải vượt qua bao nhiêu ngọn núi, đối mặt với bao nhiêu hiểm nguy mới có thể giành được chiến thắng. Tham khảo bài 🌼Cảm Nhận Đoạn Thơ Tây Tiến Đoàn Binh Không Mọc Tóc ❤️️10 Mẫu Văn Mẫu Nghị Luận Tây Tiến Chọn Lọc – Bài 4 Văn Mẫu Nghị Luận Tây Tiến Chọn Lọc là tài liệu tham khảo hữu ích để các em chuẩn bị tốt cho kì thi của mình. Những năm tháng khói lửa bom đạn trong chiến tranh gian khổ đã đi qua nhưng những bài thơ, lời ca ca ngợi cuộc kháng chiến hào hùng của dân tộc vẫn còn vang mãi tới bây giờ. Thơ ca thời kỳ kháng chiến luôn khắc họa những hình ảnh chân thực về những con người góp phần làm cho đất nước thống nhất, trong đó có người lính Việt Nam. Tây Tiến của Quang Dũng là một trong những bài thơ hay trong kho tàng thơ ca cách mạng. Đọc bài thơ, người đọc cảm nhận được cảnh vật núi rừng Tây Bắc hùng vĩ mà nên thơ cùng hình ảnh người lính Tây Tiến hào hoa, lãng mạn mà vẫn rất dũng cảm, oai hùng và bi tráng trước sự hi sinh vì tổ quốc. Bài thơ là nỗi nhớ da diết của nhà thơ Quang Dũng về đoàn quân Tây Tiến nơi ông gắn bó một thời gian dài. Miên man theo nỗi nhớ ấy, nhà thơ đã tái hiện lại hình ảnh núi rừng Tây Bắc rộng lớn, hùng vĩ nhưng cũng rất nên thơ, trữ tình. “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳmHeo hút cồn mây súng ngửi trờiNgàn thước lên cao ngàn thước xuốngNhà ai Pha Luông mưa xa khơi” Con đường hành quân của chiến sĩ là nơi núi cao đến “ngàn thước”, dốc núi sâu “thăm thẳm”, heo hút mà hùng vĩ. Hình ảnh một ngọn núi cao chót vót hiện lên trước mắt người đọc cùng với mây trời bảng lảng trôi lãng đãng cũng rất nên thơ. Thấp thoáng bên dưới những dốc núi cao ấy là hình ảnh những ngôi nhà của dân bản đang lấp ló trong màn “mưa xa khơi”. Vùng đất Mai Châu còn hiện lên thật đẹp trong những “mùa em thơm nếp xôi”. Đọc đến đây, người đọc như hình dung ra những cánh đồng lúa ruộng bậc thang bát ngát, vàng óng báo hiệu một mùa bội thu với hương thơm ngào ngạt của lúa nếp, của bát xôi dẻo quện. Mảnh đất miền Tây còn hiện lên đẹp đẽ hơn trong những đêm giao lưu văn nghệ với thôn bản trong hình ảnh “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa”. Đuốc hoa tỏa ánh sáng rực rỡ cho màn đêm núi rừng, màu sắc sặc sỡ của “xiêm áo” các cô gái miền sơn cước tạo nên bức tranh nhiều màu sắc cỏ cả vẻ đẹp núi rừng và sự sống con người nơi đây. Một bức tranh đêm lửa trại ấm áp, vui vẻ với đủ màu sắc, ánh sáng và âm thanh của tiếng “khèn” càng làm thơ Tây Bắc nên thơ hơn bao giờ hết. Qua cái nhìn của nhà thơ, núi rừng Tây Bắc càng nên thơ như một bức tranh đẹp với nhiều chi tiết nhỏ bé thân thương “Người đi Châu Mộc chiều sương ấyCó thấy hồn lau nẻo bến bờCó nhớ dáng người bên độc mộcTrôi dòng nước lũ hoa đong đưa” Châu Mộc mang một vẻ đẹp huyền bí với những chiều sương giăng lối, lau bên những bến bờ đung đưa trước gió, lấp ló trong màn sương chiều. Đặc biệt, một hình ảnh bé nhỏ nhưng lại giàu sức gợi, đó là những bông hoa rừng như hoa mơ, hoa mận, hoa lan…đang “đung đưa” theo “dòng nước lũ”. Hình ảnh rất đỗi thân thương ấy cũng góp phần tạo nên một thiên nhiên nơi núi rừng miền Tây đẹp đẽ, nên thơ, hữu tình. Cùng hình ảnh đẹp về thiên nhiên nơi núi rừng Tây Bắc và cuộc sống sinh hoạt cộng đồng của con người nơi đây, bài thơ cũng khắc họa được hình ảnh những người lính Tây Tiến hào hoa, tâm hồn trẻ trung và cũng rất quả cảm, bi tráng. Những người lính Tây Tiến xuất thân từ trí thức trẻ, là những người học sinh, sinh viên gác bút nghiên lên đường chiến đấu vì lý tưởng cao đẹp, độc lập tự do cho dân tộc Việt Nam. Bởi thế, tâm hồn họ rất tinh tế, trẻ trung là một điều dễ hiểu. Với sự trẻ trung trong tâm hồn, người lính luôn nhìn cuộc sống một cách lạc quan, đứng trên đỉnh núi cao như chạm tới mây trời, họ hài hước ví von “súng ngửi trời”. Gặp bệnh tật nơi rừng hoang, sương muối khiến các anh có bị rụng tóc, hay làn da xanh xao vàng vọt, thì người lính vẫn có cái nhìn lạc quan “Tây Tiến đoàn binh không mọc tócQuân xanh màu lá giữ oai hùm” Những người lính trong đoàn binh Tây Tiến yêu đời là vậy, họ còn lãng mạn bay bổng lắm. Phải có một cái nhìn tinh tế và tâm hồn lãng mạn, người lính mới cảm được cái vẻ đẹp của “mùa em thơm nếp xôi”, cảm được vẻ đẹp của “chiều sương”, của “hồn lau” cùng những bông hoa nhỏ xinh “đong đưa” trôi trên “dòng nước lũ”. Và phải thật lãng mạn họ mới có những giấc mơ bay bổng “đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Mơ về dáng kiều thơm cũng chính là nỗi nhớ về những người con gái Hà Nội, nhớ về đất Hà thành nơi các anh gắn bó những ngày tới trường. Tâm hồn trẻ trung, lãng mạn của người lính còn được khắc họa trong những buổi giao lưu văn nghệ ấm tình quân dân “Doanh trai bừng lên hội đuốc hoaKìa em xiêm áo tự bao giờKhèn lên man điệu nàng e ấpNhạc về Viêng Chăn xây hồn thơ” Người lính cũng say sưa, vui vẻ hòa mình vào không gian của lễ hội Tây Bắc. Vẻ đẹp của cảnh sắc và con người lung linh khiến những người lính trở nên ngỡ ngàng thốt lên “kìa em”. Qua cái nhìn của các anh, những bó đuốc sáng rực như những bông hoa phát sáng lung linh. Từ những tiếng khèn, tiếng nhạc, người lính mơn man xây lên những “hồn thơ” đẹp đẽ, trong sáng. Hai từ “hồn thơ” lại càng khẳng định vẻ lãng mạn, chất thi sĩ trong tâm hồn những người lính xuất thân từ trí thức này. Vẻ đẹp của người lính Tây Tiến trở nên đẹp đẽ hơn, như khúc ca tráng lệ về sự hào hùng, bi tráng trước sự hi sinh bất tử “Rải rác biên cương mồ viễn xứChiến trường đi chẳng tiếc đời xanhÁo bào thay chiếu anh về đấtSông Mã gầm lên khúc độc hành” Nơi khói lửa can qua, sau những trận đánh lớn, biết bao người lính hiên ngang đã ngã xuống. Hình ảnh ” biên cương mồ viễn xứ” đều sử dụng các từ hán việt khiến câu thơ mang một màu sắc cổ kính hơn, bi hùng hơn. Câu thơ gợi lên một bức tranh về những nấm mồ rải rác nơi biên ải xa xôi sau những trận đánh ác liệt. Nhưng nói lên hiện thực ấy để nhà thơ khẳng định một điều rằng người lính dù hi sinh vẫn không hề nuối tiếc “chẳng tiếc đời xanh”. Nó như một lời thề sắt son của các anh, nguyện “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Người chiến sĩ ra đi cũng thật hiên ngang như những vị tướng sĩ ngày xưa, về với đất mẹ kính yêu. Câu thơ “sông Mã gầm lên khúc độc hành” mang một vẻ đẹp thật hào hùng, nó giống như một khúc ca vang lên thống thiết tiễn đưa những người lính. “Sông Mã” cũng như cả đất nước thổn thức “gầm lên” trước sự ra đi ấy, nó cũng thể hiện sự đau đớn biến thành sức mạnh để những người lính, những người đồng đội của các anh tiếp tục chiến đấu cho tổ quốc tự do, độc lập. Tới đây, mạch thơ như trào dâng mãnh liệt, kết thúc với một “khúc độc hành” tạo nên bức tượng đài bi tráng về người lính Tây Tiến. Ngoài bài Nghị Luận Tây Tiến tặng bạn 💧 Nhận Thẻ Cào 50k Miễn Phí 💧 Kiếm Thẻ Cào Free Bài Văn Nghị Luận Tây Tiến Đạt Điểm Cao – Bài 5 Bài Văn Nghị Luận Tây Tiến Đạt Điểm Cao để lại nhiều ấn tượng cho các bạn đọc sau đây với cách diễn đạt bài văn logic và giàu hình ảnh. Bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng là một trong những tác phẩm đặc sắc với hình tượng người lính cụ Hồ. Chân dung người lính cách mạng trong thời kì kháng chiến chống Pháp huy hoàng của dân tộc được hiện lên một cách bi tráng và oai hùng. Nhà thơ Quang Dũng viết về người lính Tây Tiến – đơn vị quân đội thành lập năm 1947 với nhiệm vụ bảo vệ biên giới Việt – Lào – cùng sự kiêu hãnh và niềm tự hào với tất cả tình cảm chân thành của ông. Chiến sĩ Tây Tiến phần lớn là thanh niên, học sinh sinh viên Hà Nội. Họ là những người biết đến chiến trường khắc nghiệt, nguy hiểm và thiếu thốn kể từ khi đi lính. Bài thơ Tây Tiến là kỉ niệm, hoài niệm của tác giả thay cho lời muốn nói của những người chiến sĩ kiên cường và đồng thời là lời của đồng bào dân tộc ta. Hình tượng người lính Tây Tiến trong bài thơ mang những nét phẩm chất đặc trưng của người lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc /…/ Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm Người lính Tây Tiến mang một vẻ đẹp rất mực hào hùng, hào hoa giữa môi trường chiến đấu khắc nghiệt. Xuất thân là những chàng trai Hà Nội lãng mạn, những người lính nhìn đời bằng con mắt mơ mộng và đầy tinh thần lạc quan của tuổi trẻ. Ngoài thiên nhiên khắc nghiệt, khó khăn chồng tiếp khó khăn với đoàn quân khi mà những người lính trẻ tuổi còn phải đối mặt với bệnh tật. Bệnh sốt rét làm “đoàn binh không mọc tóc”, tóc rụng và nước da xanh xao như “màu lá”. Thế nhưng tinh thần của họ không bao giờ là bi ai tuyệt vọng. Họ vẫn đứng lên chiến đấu với tâm thế “dữ oai hùm”, “mắt trừng”. Họ vẫn mơ mộng về “Hà Nội dáng kiều thơm”. Họ vẫn là những chiến sĩ trẻ tuổi lãng mạn trong tình yêu và lạc quan trong cách sống. Sự lạc quan ấy như tiếp thêm sức mạnh cho họ trở nên kiên cường và gan dạ dù có khó khăn đến mấy, dù điều kiện môi trường có khắc nghiệt đến nhường nào. Thiên nhiên hoang vu hiểm trở đến thế, tư thế vượt qua của người lính Tây Tiến thật oai phong lẫm liệt và đầy khí phách Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm/…/ Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi Những con dốc nguy hiểm “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” có thể lấy mạng người chiến sĩ bất cứ lúc nào. Vượt qua muôn trùng hiểm trở, tư thế của người lính thật ngang tàn và hùng dũng biết bao “súng ngửi trời”. Người lính tay cầm cao cây súng hiên ngang bảo vệ non sông đất nước. Giữa thiên nhiên vắng vẻ hiểm trở đến “heo hút”, chân dung người lính cụ Hồ vẫn sừng sững kiên cường và trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa /…/ Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa Người lính Tây Tiến mang trong mình triết lí sống cao đẹp thấm đượm tình người. Bên cạnh những đôi mắt “trừng” đương đầu với kẻ địch bên bến bờ sinh tử, bên cạnh tư thế hiên ngang hùng dũng chống chọi với thiên nhiên vô tình, những người lính ấy còn có một đời sống tinh thần nồng nàn tình thân với đồng bào dân tộc. Họ trở về là những chàng trai thành thị vui đùa với những cô gái Lào duyên dáng thướt tha. Họ chìm đắm trong cảm xúc nhung nhớ về ngày tháng gắn bó với con người và miền đất nơi đây. Đằng sau tinh thần quyết tử cho tổ quốc quyết sinh của họ là tâm hồn yêu thiên nhiên, đất nước và con người sâu đậm. Rải rác biên cương mồ viễn xứ/…/ Sông Mã gầm lên khúc độc hành Nét đẹp bi tráng của người lính Tây Tiến làm tỏa sáng vẻ đẹp lí tưởng của giới trẻ thời kì kháng chiến. Công cuộc bảo vệ đất nước dài đằng đẵng và khó khăn biết mấy, hòa bình đánh đổi bằng mồ hôi xương máu và muôn vàn sự hy sinh. Đã có biết bao người lính trẻ đã ngã xuống giữa đất trời Tây Bắc. Thân xác các anh nằm lại nơi biên cương “viễn xứ”. Thế nhưng họ vẫn hùng dũng kiên cường cầm súng bảo vệ tổ quốc mà “chẳng tiếc đời xanh”. Cho đến khi ngã xuống, thân xác họ chỉ có chiếc chiếu quý như chiếc “áo bào”, chôn “rải rác”. Những cái chết ấy vừa bi thương vừa tráng lệ, để đời sau cảm phục biết bao trước sự hy sinh bất khuất của những người lính Tây Tiến anh hùng. Qua bút pháp lãng mạn của nhà thơ Quang Dũng, hình tượng người lính Tây Tiến hiện lên với vẻ đẹp độc đáo ngang tàng, oai hùng trong mọi hoàn cảnh và mọi tâm thế. Chân dung người lính Tây Tiến chói ngời trong vẻ đẹp lí tưởng, sẵn sàng hi sinh cho độc lập dân tộc. Chúng ta đang được hưởng nền độc lập từ xương máu ông cha ta và các thế hệ đi trước hy sinh mà thành. Ta cảm phục, tự hào và biết ơn sâu sắc những người lính Tây Tiến – người lính cụ Hồ. Bên cạnh bài Nghị Luận Tây Tiến, có thể bạn sẽ thích bài 🌼Phân Tích Đoạn 2 Tây Tiến❤️️ Mẫu Hay Bài Văn Nghị Luận Tây Tiến Ấn Tượng – Bài 6 Bài Văn Nghị Luận Tây Tiến Ấn Tượng sẽ mang đến cho các em thêm nhiều ý văn hay và hấp dẫn sau đây. Bài thơ Tây Tiến sáng tác tại Phù Lưu Chanh vào năm 1948 khi Quang Dũng đã chuyển đơn vị. Nhưng những ngày tháng Quang Dũng chiến đấu, sống ở đoàn quân Tây Tiến chưa lâu, với những kỷ niệm khó quên nên nỗi nhớ Tây Tiến da diết, cồn cào trong lòng tác giả. Toàn bài thơ là một nỗi nhớ, nhớ về cuộc sống gian khổ, nhớ về kỷ niệm những đêm liên hoan, về cái âm u, hoang dã của rừng núi và in đậm nhất là nỗi nhớ của người lính Tây Tiến. Ra đi kháng chiến khi còn là thanh niên, học sinh Hà Nội, Quang Dũng trở thành người lính. Kỷ niệm làm người lính Tây Tiến đã xa mà lại rất gần, để ghi nhớ lại, tác giả phải bật lên “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!” Câu thơ kết thúc bằng dấu chấm than cùng âm hưởng của vần ơi, tạo nên sức mạnh lớn. Hình ảnh đó là tiếng nói của Quang Dũng vang vọng đến đoàn quân Tây Tíên? Không ! Đó là tiếng lòng của tác giả “xa rồi Tây Tiến ơi!” nhưng tấm lòng thì vẫn tha thiết lắm ! Âm hưởng câu thơ có sức vọng làm cho tiếng lòng của Quang Dũng như xoáy vào tâm hồn người đọc rung theo những xúc cảm do câu đầu mang lại để đến với nỗi nhớ Tây Tiến “Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi” Rừng núi là nơi xưa kia tác giả cùng đồng đội đã cùng sống, cùng chiến đấu Rừng núi in đậm bao nỗi khổ, bao nhiềm vui nỗi buồn của những người chiến sĩ. Hơn ai hết, tác giả là người trong cuộc, tác giả nhớ về rừng núi, những khó khăn gian khổ mà mình đã từng nếm trải “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi/…/Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.” Cứ như thế, với những câu vần bằng xen vào giữa những câu vần trắc, âm hưởng đoạn thơ trở nên trùng điệp hơn, âm điệu ấy cứ theo suốt bài thơ, cùng với cách dùng từ cổ kính của Quang Dũng góp phần tạo nên nét lãng mạn mà hào hùng cho bài thơ. Cả khổ thơ đầu là những khó khăn của vùng rừng núi thiên nhiên hoang sơ. Đứng trước bức tranh dữ dội ấy, ai cũng thầm nghĩ vậy người lính sống thế nào nhỉ? “Anh bạn dãi dầu không bước nữa/…/Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.” Quang Dũng tả rất thực những khó khăn của cuộc kháng chiến mà đoàn quân Tây Tiến đã gặp nhưng không làm bài thơ trở nên bi thảm, lòng người bi quan mà chỉ để ca ngợi người lính. Tác giả lại tiếp tục đưa ta đến với người lính cũng bằng ngòi bút rất thực ấy. Trước gian khổ, trên đường hành quân, nhiều người đã nằm lại mảnh đất xa lạ để không bao giờ tỉnh dậy. Hình như có ai đó đã nói về cách sử dụng từ “Mường Hịch” của Quang Dũng. Địa danh đọc lên có cảm giác như tiếng chân cọp đi trong đêm. Rừng núi trở nên rờn rợn, nguyên vẻ hoang sơ của nó. Ở nơi xa xôi con người lần đầu đặt chân, thiên nhiên là chủ thì khó khăn như tăng thêm bội phần. Nhưng nét lạc quan, vui vẻ của người lính vẫn chẳng thể mất dọc cuộc hành trình. “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khóiMai Châu mùa em thơm nếp xôi.” Quang Dũng lại nhớ về những kỉ niệm của những đêm liên hoan. Nhịp điệu câu thơ hình như có cái gì nao nức, rộn rã “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa /…/ Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.” Quang Dũng xa Tây Tiến nhưng khoảng thời gian ấy chưa lâu nên kỉ niệm Tây Tiến vẫn như nguyên vẹn. Nỗi nhớ “chơi vơi” trải khắp bài thơ nhưng cô đọng vẫn là ở nỗi nhớ về người línhTây Tiến. Có lẽ người lính Tây Tiến, hình ảnh của họ đã ăn sâu tận trong máu thịt tác giả “Tây Tiến đoàn quân không mọc tócQuân xanh màu lá dữ oai hùm” Câu thơ đầu hoàn toàn tả thực về người lính kháng chiến, nổi tiếng bởi tên gọi “Vệ trọc”. Giữa rừng núi hoang sơ, nạn sốt rét là nạn mà người lính thường mắc phải. Sốt rét đến nỗi trọc cả đầu chỉ còn một vài sợi tóc lưa thưa đến nỗi da xanh xao “màu lá”. Sốt rét là bệnh tiêu biểu thường gặp ở người lính khi Quang Dũng nói về điều này, tác giả còn muốn cho ta biết, người lính Tây Tiến sống như thế đấy! Họ vừa chiến đấu với quân thù nhưng lại phải chiến đấu với cả gian khổ, bệnh tật nữa. Giữa bao nhiêu khó khăn người lính vẫn “Quân xanh màu lá dữ oai hùm” Nét dữ tợn của người chiến sĩ Tây Tiến ở đây không làm nhạt đi tí nào hình ảnh người lính Tây Tiến trong ta. Bệnh tật, yếu đau tưởng chừng làm người chiến sĩ yếu đuối nhưng ta bất ngờ vì dáng vẻ “dữ oai hùm” của anh lính. “Dữ oai hùm” làm mất đi sự yếu đuối của “đoàn quân không mọc tóc” và của “quân xanh màu lá”, câu thơ trên giúp cho câu thơ sau tiếp tục “Mắt trừng gởi mộng qua biên giớiĐêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” Đây chính là hai câu thơ tập trung nhất vẽ nên bức tranh người lính Tây Tiến và cũng là hai câu thơ hay nhất trong cả bài thơ. Người lính Tây Tiến sống với hình ảnh của quê hương Hà Nội, chiến đấu với tương lai trước mặt. Hai câu thơ vừa mang nét lãng mạn của người chiến sĩ vừa có nét hào hùng. Người lính Tây Tiến gặp bao nhiêu gian khổ. Dọc con đường hành quân bao người đã ngã xuống vì gian khổ, vì khắc nghiệt của rừng núi, vì đau ốm bệnh tật và họ ngã xuống vì chiến đấu. “Rải rác biên cương mồ viễn xứ.” Từ “rải rác” làm ta cảm giác người lính Tây Tiến ngã xuống, ngã xuống nhiều trong cuộc chiến đấu, làm ta cảm giác thấm thía cái lạnh khi những con người phải từ giã cuộc đời. Từ “viễn xứ” tạo nên sự xa xôi, lạnh lẽo của rừngnúi, gợi sự cô đơn của những người nằm lại. Câu thơ trầm xuống xoáy vào lòng ta nỗi buồn không thể thốt nên lời, ta tưởng chừng câu thơ sau sẽ không cất nổi mình, nhưng ngược lại “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” Câu thơ lại nhẹ nhàng như không hề mang chút bi thảm của những nấm mồ viễn xứ. Câu thơ trước tạo nên cái “bi”, câu thơ sau tạo nên nét “tráng”. Cái không khí bi quan bíên mất, chỉ còn lại nét ngang tàng, chút thanh thản của người lính Tây Tiến. Đâu phải họ không tiếc cho tuổi trẻ. Không phải “tuổi trẻ là mùa xuân” đó sao! Nhưng cao hơn cả tuổi trẻ họ còn có tự do, quê hương. Còn người hậu phương gởi gấm cả nỗi lòng cho họ. Đó là lí do tại sao người lính Tây Tiến chẳng tiếc đời xanh. Họ nằm xuống nhẹ nhàng “Áo bào thay chiếu anh về đấtSông Mã gầm lên khúc độc hành” Không hề có tiếng khóc giọt nước mắt tang thương. Chỉ có núi sông, đất mẹ chứng kiến cái chết của anh. Bóng dáng của anh hoà vào núi sông, hoà vào đất mẹ. Người lính Tây Tiến ra đi nhưng hình ảnh của anh không bao giờ mờ phai trong tâm trí con người. Hình ảnh người lính và những kỷ niệm đậm mãi trong lòng Quang Dũng và mỗi chúng ta. Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất Nghị Luận Tây Tiến Đoàn Binh Không Mọc Tóc – Bài 7 Nghị Luận Tây Tiến Đoàn Binh Không Mọc Tóc, cùng tham khảo bải văn sau để trau dồi thêm cho mình những kiến thức văn học hay và đặc sắc. Nằm trong mảng đề tài viết về người lính Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống Pháp, “Tây Tiến” là bài thơ thành công khi xây dựng được hình ảnh người lính không chỉ mang phẩm chất chung của tất cả những người lính Việt Nam mà còn mang những nét riêng độc đáo. Điểm nối bật trong bài thơ là hình tượng người lính với vẻ đẹp bi tráng, được khai thác thông qua bút pháp lãng mạn. Vẻ đẹp này của hình tượng người lính tập trung nhất trong khổ thơ “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc/…/ Sông Mã gầm lên khúc độc hành” Khổ thơ này nhà thơ đã giành cả một đoạn thơ dài chỉ để nói về hình ảnh người chiến sĩ và sự hi sinh đầy bi tráng của họ. Người lính được miêu tả qua những hình ảnh thực, gợi cảm “Tây Tiến đoàn binh không mọc tócQuân xanh màu lá dữ oai hùm” Hình ảnh miêu tả xuất phát từ hiện thực những khó khăn gian khổ mà người lính gặp phải. Đó là thời tiết khắc nghiệt, đói ăn, bệnh tật, sốt rét hoành hành khiến cho hình hài trở nên tiều tụy “không mọc tóc”, “xanh màu lá”. Nói đến những gian khổ, vất vả nhưng giọng thơ Quang Dũng thật hào hùng. Ông gọi binh đoàn Tây Tiến là đoàn binh không mọc tóc. Cả một “đoàn binh” lại mang “oai” của hùm tạo cho người ta cảm giác ở đó dường như đang toát lên sức mạnh lớn lao không thế nào khuất phục được. Sức mạnh đó được bổ sung thêm bằng hình ảnh “Mắt trừng gửi mộng qua biên giớiĐêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” Hai hình ảnh, một thực tế, một lãng mạn được đặt cạnh nhau thậm chí còn là cầu nối cho nhau. Anh mắt trừng “gửi mộng qua biên giới” thế hiện cái uy phong lẫm liệt của họ. Ba câu thơ đang miêu tả theo cấp độ có thể nói là tăng tiến về hình ảnh đầy ấn tượng của người lính chợt chùng lại bởi một “dáng kiều thơm” ở mảnh đất quê hương. Chi tiết này thế hiện sự tinh tế của Quang Dũng, nhà thơ miêu tả người lính trong những nét phi thường nhưng vẫn không quên đồng cảm với một giấc mơ bình thường nhất và cũng là lãng mạn nhất giấc mơ về một dáng kiều thơm. Họ là những chàng trai mười chín, hai mươi tràn đầy nhựa sống, khát khao yêu và khát khao hạnh phúc. Họ có quyền mơ về một bóng hình giai nhân nào đó chứ! Nhiều hơn thế, hình ảnh người con gái còn gắn với mảnh đất Hà thành, nơi người lính đã sinh ra nên có lẽ giấc mơ ấy còn là giấc mơ về gia đình, về quê hương, mảnh đất nơi họ đã sinh ra và gắn bó. Trước đó chỉ bằng hình ảnh “gục lên súng mũ bỏ quên đời”, Quang Dũng đã khiến cho người đọc ngậm ngùi về sự hi sinh của người lính Tây Tiến. Nhà thơ tránh không dùng đến từ hi sinh mà khắc họa người lính Tây Tiến ngã xuống nhưng vẫn trong tư thế bước tiếp khúc quân hành cùng đồng đội. Những câu thơ tiếp theo này lại một lần nữa nhắc đến hi sinh của những người lính trong binh đoàn Tây Tiến “Rải rác biên cương mồ viễn xứ/…/Sông Mã gầm lên khúc độc hành” Bốn câu thơ trước hết dựng lên một thực tế trong cuộc chiến đấu. Người chiến sĩ ra đi là đã xác định trước được những gì mình sẽ phải trải qua. Chiến trường khốc liệt không thể mang lại cho người nằm xuống một nơi an nghỉ vĩnh viễn bên cạnh những người thân yêu. Ngã xuống, họ sẽ là một trong những “nấm mồ viễn xứ” trên biên cương, tiếp tục làm công việc ngày đêm canh giữ từng tấc đất thân thương. Không ai không xác định được điều ấy. Vậy mà họ vẫn ra đi, vẫn cống hiến. Chính bởi xác định được lí tưởng sống cao đẹp ấy mà lớp thanh niên vẫn ngày đêm hát vang khúc quân hành, ra đi bảo vệ quê hương, đất nước. Rồi có những người ngã xuống “giản dị và bình tâm” nhưng cái chết của họ lại mang dáng dấp của một vị anh hùng sử thi. Mời bạn xem nhiều hơn bài 🌹Phân Tích Khổ 3 Tây Tiến ❤️️ Ngoài bài Nghị Luận Tây Tiến Nghị Luận Tây Tiến Hay Nhất – Bài 8 Bài văn Nghị Luận Tây Tiến Hay Nhất được nhiều bạn đọc quan tâm và chia sẻ rộng rãi sau đây. Cuộc kháng chiến chống Pháp đi qua để lại những dâu ấn không thể phai mờ trong tâm hồn dân tộc. Đó là điểm hội tụ của muôn triệu tấm lòng yêu nước môi trường thử thách tinh thần chiến đấu ngoan cường, bất khuất của nhân dân ta. Cuộc kháng chiến còn làm nảy sinh biết bao hình ảnh đẹp mà đẹp nhất là hình ảnh người lính. Bên cạnh những bài thơ nổi tiếng một thời như Đồng chí của Chính Hữu, Nhớ của Hồng Nguyên…. Tây Tiến của Quang Dũng là một thi phẩm đặc sắc. Đoàn quân Tây Tiến quy tụ một lực lượng đông đảo đủ mọi tầng lớp thanh niên từ khắp phố phường Hà Nội. Có nhiều thanh niên học sinh thuộc tầng lớp trí thức tiểu tư sản vừa rời trang sách nhà trường để tham gia vào cuộc chiến đấu của dân tộc. Tất cả những con người ấy ra đi với lí tưởng chung của dân tộc là chiến đấu bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc. Họ ra đi không hẹn ngày trở về chiến đấu với mục đích “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” . Trong đoàn người nô nức lên đường đi chiến đấu, trong hàng ngũ những thanh niên trí thức ngày hôm qua có khi là những tự vệ chiến đấu trên phố phường, chiến lũy Hà Nội, mà hôm nay đã có mặt trong đoàn quân Tây Tiến, thấp hoáng xuất hiện một khuôn mặt Quang Dũng, tác giả của bài thơ. Cũng chính vì thế mà những thanh niên như Quang Dũng sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ, hi sinh để chiến đấu đến ngày thắng lợi cuối cùng. Vào Tây Tiến, Quang Dũng cùng sống và chiến đấu một thời gian với đơn vị này và sau đó chuyển sang đơn vị khác. Một ngày ngồi ở Phù Lưu Chanh, Quang Dũng nhớ về những người đồng đội, nhớ về những tháng ngày chiến đâu gian nan nhưng hào hùng, nhớ đơn vị cũ, nhớ những con đường hành quân mà ông cùng đơn vị từng đi qua. Nỗi nhớ ấy dần lớn lên trong Quang Dũng, bật ra thành hai câu thơ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi. Cuộc sống chiến đấu của Tây Tiến cùng những nơi mà đơn vị đã đi qua hẳn là những kỉ niệm hết sức sâu đậm trong tâm hồn nhà thơ. Hẳn một phần quãng đời Quang Dũng gắn bó với Tây Tiến là cuộc sống hoạt động trong vùng rừng núi. Bởi thế, nhà thơ nhớ về Tây Tiến là nhớ ngay về sông Mã, nhớ về rừng núi với bao kỉ niệm vui buồn, ấn tượng về một miền rừng núi khắc nghiệt đã để lại trong tâm hồn nhà thơ dấu ấn chẳng phai mờ. Vì thế, Quang Dũng nhớ về những tháng ngày đã qua với một tình cảm yêu thương lắm nhưng chẳng biết gọi lên chính xác nỗi nhớ ấy. “Nhớ chơi vơi!” diễn tả một nỗi nhớ không có hình, không có lượng nhưng hình như rất nặng và mênh mang đầy ắp. Quang Dũng lấy nỗi nhớ trong ca dao để tượng trứng thêm cho nỗi nhớ chơi vơi của mình, thật là chi tiết đắt giá! Ngay từ đầu bài thơ, ông đã miêu tả vùng rừng núi ấy thiết tha như thế làm cho người đọc chú ý ngay. Nhớ Tây Tiến, nhớ về sông Mã và núi rừng trùng điệp, nhớ con đường hành quân Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi /…/ Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi. Con đường hành quân điệp trùng với bao cái khắc nghiệt, dữ dội của mỗi vùng rừng biên ải. Đọc đoạn thơ, chưa cần suy ngẫm nội dung bên trong, chúng ta đã có thể hình dung ra con đường mà Quang Dũng miêu tả. Kết cấu đọan thơ cứ thanh bằng thanh trắc đan chéo nhau, trải dài ra miên man, vô tận như con đường xa thẳm khấp khểnh. Nhạc điệu êm ả, triền miên. Đoàn quân Tây Tiến đi trong lớp sương dày của núi rừng, tất cả lung linh trong lớp sương khói mờ ảo, như thực, như mộng. Thế nhưng, mỗi địa danh đều gợi lên trong người đọc về hình ảnh của một xứ lạ, phương xa; nếu ta chỉ thử thay Sài Khao bằng một tên gọi khác là lớp sương huyền ảo ấy tan biến ngay. Đoàn quân Tây Tiến cất bước , trên con đường xa vạn dặm, với cái trắc trở, gập ghềnh của con đường. Đã dốc lên khúc khuỷu mà còn dốc thăm thẳm, đã ngàn thước lên cao rồi lại ngàn thước xuống thì đúng là đến độ cao chất ngất, ngoằn ngoèo khó đi. Tất cả những đặc điểm ấy diễn tả nổi khó khăn của đoàn quân Tây Tiến khi hành quân. Nó ghi lại ấn tượng về một miền rừng núi thật là dữ dội và khắc nghiệt. Quang Dũng có những cách dùng từ rất tinh tế mà cũng hết sức tinh nghịch núi cao chạm mây nối thành cồn heo hút, và để diễn tả chiều cao của núi thì chỉ ba chữ súng ngửi trời nghe thật ngộ nghĩnh. Phải chăng đó là cách gọi của lính mà Quang Dũng ghi lại với tư cách một người trong cuộc? Dù sao, qua những từ ngữ, chi tiết và cách kết hợp thanh điệu của đoạn thơ cũng đã vẽ lên trước mát ta hình ảnh một miền rừng núi mà đoàn quân Tây Tiến đã từng đi qua. Có những câu thơ dùng toàn vần bằng rất hay Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi Sau khi ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống người chiến sĩ Tây Tiến như đứng trên núi cao mà nhìn xuống thung lũng phủ kín trong màn mưa. Những ngôi nhà như đang trôi bồng bềnh trong làn mưa trắng. Thanh bằng của từng chữ trải ra, mênh mang, diễn tả cái màn mưa phủ giăng thung lũng. Rừng núi trùng, ấn tượng về miền rừng núi cũng thật là khắc nghiệt và dữ dội Chiều chiều oai linh thác gầm thét. Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người. Chỉ hai câu thơ thôi mà gieo vào lòng ta tất cả những sự khắc nghiệt của miền rừng núi này – một miền núi rừng âm u với thú dữ đe doạ con người. Hai chữ Mường Hịch đi với nhau nghe nặng như chân cọp. Có một điều kì lạ là nếu ta thay địa danh này bằng hai chữ khác như Châu Thuận chẳng hạn, thì hiệu lực câu thơ sẽ giảm sút ngay. Qua sự miêu tả của Quang Dũng, một vùng núi rừng biên ải hiện lên với tất cả sự khắc nghiệt, dữ dội của thiên nhiên. Đó là những khó khăn mà người chiến sĩ Tây Tiến phải vượt qua trên con đường hành quân. Quang Dũng nói cái thực trên con đường Tây Tiến. Bao người chiến sĩ đã nằm lại trên con đường hành quân. Có một điều lạ làm toả sáng cả ý thơ là người lính Tây Tiến đến lúc gục xuống vẫn cố gắng trong tư thế của người lính, chết rồi nhưng súng mũ vẫn còn đó, hành trang của người chiến sĩ vẫn còn trong tư thế tiếp tục cuộc hành trình. Bao cảnh gian khổ khó khăn, khắc nghiệt dữ dội của con đường hành quân, của thiên nhiên xứ lạ đã thử thách người chiến sĩ Tây Tiến một cách ghê gớm. Dường như để trả trạng thái tâm hồn chúng ta về thế cân bằng sau khi chùng xuống trước cuộc sống chiến đấu của người chiến sĩ Tây Tiến, Quang Dũng hồi tưởng lại nhiều hình ảnh vui, ấm áp. Khói bếp, mùi thơm cơm nếp gợi cái ấm cúng của cuộc sống thanh bình, hạnh phúc. Sức nóng của nó đủ làm tâm hổn dần ấm lại sau những phút giây chứng kiến những gian khổ của người lính, đuốc hoa là hình ảnh có sức khơi gợi, gợi cho ta cái cảm giác tươi vui như đang chứng kiến lễ hội đông vui. Hai liếng kìa em vừa ngỡ ngàng, vừa sung sưc nó diễn cả tâm hồn của người chiến sĩ Tây Tiến. Trong cả đoạn thơ dìu dặt thành tiếng nhạc, tiếng khèn, phảng phất hình ảnh vui tươi của cuộc sống bình như chẳng biết đến chiến ưanh. Hình ảnh nhạc về Viên Chăn xây hồn là hình ảnh đẹp, thơ mộng, diễn tả tâm hồn phong phú của người lính Tây Tiến. Không lên gân, không khiên cưỡng, mọi gian khổ hi sinh đối với người lính là chuyện binh thường và tất yếu, vì vậy mà họ vẫn lạc quan, vẫn yêu đời, vẫn sống với lâm hồn trẻ trung, tươi mát. Cũng vậy mà người lính Tây Tiến có thể vẫn nhớ một dáng thuyền độc mộc, hoặc một bông hoa trên dòng nước lũ. Những hình ảnh rất bình thường ấy, ngỡ rằng sau bao sự thử thách về tinh thần, người lính sẽ quên đi. Nhưng không, họ vẫn nhớ. Những hình ảnh ấy in sâu vàu tâm hồn ngựời lính Tây Tiến, là nguồn động viên thúc giục họ chiến đấu, dù tiếp tục đón nhận những thử thách mới Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc /…/ Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm của đoàn quân không mọc tóc! Có cách nói nào lại khơi dậy nhiều cảm xúc đến thế! Như vậy thì hình ảnh của anh bộ đội Tây Tiến có trở nên quái đản không? Không đâu! Đó chính là hình ảnh oai hùng của anh “Vệ trọc” nổi tiếng một thời rét nên tóc rụng, vả lại, cái cách nói đoàn quân không mọc tóc ấy phần nào cũng dựng nên hình ảnh người tráng sĩ với dáng dấp thật hùng dũng và hiên ngang. Người lính Tây Tiến cũng chịu đựng những cơn sốt rét ghê gớm ấy, thế nhưng, nó không làm nhụt đi ý chí của người chiến sĩ mà ngược lại họ càng chiến đấu dũng cảm hơn, kiên cường hơn, quân xanh màu lá nhưng vẫn dữ oai hùm. Cái khí phách hào hùng của người chiến sĩ Tây Tiến được ghi lại bằng sự so sánh cân bằng. Nếu ở khổ thơ trên, người lính chịu sự đe doạ của cọp thì họ cũng chiến đấu với tinh thần dũng cảm của một chúa sơn lâm như thế. Cái cuộc sống tâm hồn ây là nguồn động lực giúp người lính tiếp tục chiến đâu để giành lây độc lập, tự do cho Tổ quốc thân thương. Và cũng vì thế, người chiến sĩ chấp nhận sự hi sinh Rải rác biên cương mồ viễn xứ . Chiến trường đi chẳng tiếc ười xanh. Cứ thử làm công việc tách hai câu thơ thành từng câu một. Ôi! Cái ấn tượng bi thảm đên vô cùng mà câu thơ đầu mang đến thật mạnh mẽ. Không hiểu sao, cứ mỗi lần đọc đên câu thơ này là tôi lại chìm vào trong suy tưởng và nước mắt cứ rưng rưng! Trên con đường gập ghềnh xa thẳm của miền núi rừng biên giới đoàn quân Tây Tiến cứ đi và thỉnh thoảng có những con người phải tách ra khỏi đội hình. Những nấm mộ của người chiến sĩ mọc lên. Họ ra đi và ngã xuống thanh thản không một chút vướng bận, cái chết được xem nhẹ tựa lông hồng Áo bào thay chiếu anh về đất. Sông Mã gầm lên khúc độc hành. Cách dùng từ áo bào của Quang Dũng làm cho câu thơ trở nên cổ kính, áo bào chứ không phải chiến bào; người chiến sĩ như những danh tướng thời xưa da ngựa bọc thây là một điều vinh quang. Cũng như thế, người lính coi việc hi sinh trên chiến trường là một nghĩa vụ thiêng liêng. Người chiến sĩ Tây Tiến ngã xuống và thanh thản về đất. Đất sinh ra anh và lại đón nhận anh về sau khi làm tròn nghĩa vụ. Anh về đất như một hành động tựu nghĩa của những anh hùng. Mở đầu bài thơ là hình ảnh sông Mã, kết thúc bài thơ vẫn là tiếng gầm thét của dòng sông này. Dòng sông tiễn anh ra đi chiến đấu lại đón anh về Tây Tiến người đi không hẹn ước. Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi. Quang Dũng khẳng định lại một lần nữa cái ý chí bất khuất ra đi là không trở lại. Đó cũng là ý chí quyết tâm của cả một thế hệ, của một thời đại. Những gian khổ, hi sinh của cuộc kháng chiến là những kỉ niệm không thể quên. Sẽ không bao giờ còn có lại thời kì gian khổ đến mức ấy và cũng hào hùng đến mức ấy. Và cũng khó có thể có được bài thơ Tây Tiến thứ hai. Tìm hiểu hướng dẫn 🌹 Kiếm Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Kiếm Tiền Online Kiếm Thẻ Cào Văn Nghị Luận Tây Tiến Chi Tiết – Bài 9 Văn Nghị Luận Tây Tiến Chi Tiết giúp các em có thể nêu lên những suy nghĩ và cảm nhận về tác phẩm nổi tiếng này. Nguyễn Đình Thi từng viết “Thích một bài thơ là thích một cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ, xét đến cùng là thích một con người”. Giữa rừng thơ kháng chiến đầy sắc khoe hương đang nở rộ, “Tây Tiến” vẫn được người đọc rất ưa thích, đơn giản vì “mộ cách nhìn, một cách cảm, một cách nghĩ” ấy mà thôi. “Tây Tiến” được xem là tác phẩm đỉnh cao của đời thơ Quang Dũng. Bài thơ được viết năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, trong nỗi nhớ nồng nàn với Tây Tiến – đơn vị chiến đầu cũ – cũng là nỗi nhớ núi rừng rải về miền Tây Tổ quốc có vẻ tuyệt kì mà Quang Dũng một thời gắn bó. Không khí lãng mạn rất riêng của những ngày đầu kháng chiến, tư thế dấn thân đầy kiêu hùng, quả cảm của người con Hà Nội hào hoa, đa tình đã được thể hiện đậm nét ở từng câu thơ chưa đầy chất nhạc, chất họa, vừa trang trọng, cổ kính, vừa tươi tắn, trẻ trung. Quang Dũng viết thật hay về nỗi nhớ – nỗi nhớ dấy lên từ những nẻo đường tha hương, nẻo đường cách mạng và kháng chiến, hướng về “cố quận”, về “Xứ Đoài mây trắng lắm”. về một “ngọn Ba Vì mờ xa” và cả cái tên thân thương “Tây Tiến”. Mạch thơ chủ yếu là sự đan dệt của kỉ niệm, của những sực nhớ miên man, của những vụt hiện bất ngờ mà ở đó các địa danh có khi chỉ thoáng một dòng tên, có khi chỉ là một điểm nhấn nào đó của kỉ niệm. Còn kỉ niệm bao giờ cũng chan hòa cảnh với người, cùng song hành và đan dệt cả hai mạch vừa gian khổ vừa thơ mộng “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi /…/ Mường Lát hoa về trong đêm hơi” Nếu như phần đầu bài thơ chủ yếu nói về cái khắc nghiệt, dữ dội của hoàn cảnh thì đoạn thơ sau lại nhấn mạnh đến chất thơ đậm đà của vùng rừng núi phía Tây Tổ quốc. Trong gian khó, họ vẫn trẻ trung, vẫn thích thú tổ chức những “hội đuốc hoa”. Trong hiện thực, đó có thể là lửa đuốc nhưng trong cái nhìn lãng mạn của những chàng trai trẻ tuổi trẻ lòng thì đó là những gì rực rỡ và tươi sáng, rạng ngời cũng ấm áp, ảo huyền. Và rồi chân dung người lính Tây Tiến đã được trực tiếp hiện lên qua những nét chạm khắc rạch ròi, gân guốc “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc /…/ Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” Cụm từ “không mọc tóc” làm cho câu thơ rắn rỏi, gân guốc; câu thơ ngang tàng; con người hiện lên với tâm thế chủ động, tư thể hiên ngang ngạo nghễ. Biện pháp ẩn dụ kết hợp phóng đại “dữ oai hùm” khiến chủ thể hiện lên uy nghi, đường bệ như chúa sơn lâm, khiến ốm mà không yếu – dáng vóc của những tráng sĩ chinh phu. Tiếp theo “Dáng kiều thơm” ấy chính là vầng sáng lung linh trong kí ức, “tố cáo” nét đa tình và đời sống tình cảm dạt dào của người lính, vốn thường bị che phủ trong kháng chiến. “Rải rác biên cương mồ viễn xứ /…/ Sông Mã gầm lên khúc độc hành” Câu thơ là một trong những bức tượng đài bi tráng nhất của người lính Việt Nam. Nơi viễn xứ, những con người ấy chỉ còn là áo vải mong manh. Cái bi, cái mất mát trong chiến tranh là chẳng thể nào chối bỏ. Nhưng bi mà không hề lụy. Những câu thơ của Quang Dũng thực sự ngang tầm vóc với các chiến sĩ đã bỏ mình vì nghĩa lớn. Sự ra đi của họ lại được cất lên thành khúc “độc hành” của sông Mã đầy uy nghiêm và trang trọng. Tầm vóc con người đã sánh ngang tầm vũ trụ. “Tây Tiến” tràn đầy nỗi nhớ, hay nói đúng hơn chính là nỗi nhớ. Đó cũng có thể coi là lời nguyện ước của một thế hệ thanh niên sẵn sàng hiến dâng cả tuổi xanh của mình cho đất nước thân yêu. Thích “Tây Tiến”, đơn giản chỉ là thích cách nhìn ấy, cách cảm ấy và thích con người ấy. Đó chính là lí do bài thơ có thể vượt ngoài quy luật băng hoại của thời gian mà tồn tại với độc giả đến hôm nay và mãi mãi về sau. Gửi đến bạn bài 🍃Cảm Nhận Bài Thơ Tây Tiến ❤️️ Bên cạnh bài Nghị Luận Tây Tiến Nghị Luận Tây Tiến 8 Câu Đầu – Bài 10 Nghị Luận Tây Tiến 8 Câu Đầu, cùng đón đọc bài văn hay phân tích chi tiết về nội dung và nghệ thuật của các câu thơ. Tây Tiến là một trong những bài thơ hay, tiêu biểu của Quang Dũng. Là người lính trẻ hào hoa, lãng mạn ra đi theo tiếng gọi của tổ quốc, sống và chiến đấu nơi núi rừng gian khổ nhưng chất thi sĩ vẫn trào dâng mãnh liệt trong lòng. Tám câu thơ đầu tiên là tiếng lòng bồi hồi, xúc động khi nỗi nhớ về Tây Tiến dâng trào trong kí ức của nhà thơ. “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi” Câu thơ đầu như tiếng gọi chân thành, tha thiết xuất phát từ trái tim và tâm hồn người thi sĩ. Bằng cách sử dụng câu cảm thán mở đầu bài thơ, Quang Dũng đã gọi tên cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ cồn cào, da diết về núi rừng Tây Bắc. bằng thủ pháp nghệ thuật nhân hoá, câu thơ trở nên đẹp diệu kỳ. “Sông Mã” ko đơn thuần là con sông mà nó đã trở thành một hình ảnh hiện hữu, một chứng nhân lịch sử trong suốt cuộc đời người lính Tây Tiến với bao nỗi vui – buồn, được – mất. “Tây Tiến” ko chỉ để gọi tên một đơn vị bộ đội mà nó đã trở thành một người bạn ” tri âm tri kỉ” để nhà thơ giãi bày tâm sự “Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi” Câu thơ thứ hai với điệp từ “nhớ” được lặp lại hai lần đã diễn tả nỗi nhớ quay quắt, cồn cào đang ùa vào tâm trí Quang Dũng. Tính từ “chơi vơi” kết hợp với từ “nhớ” đã khắc sâu được tình cảm nhớ nhung da diết của nhà thơ và nỗi nhớ đó như cơn thác lũ tràn vào tâm trí nhà thơ đã đẩy ông vào trạng thái bồng bềnh, hư ảo. Hai câu đầu với cách dùng từ chọn lọc, gợi hình gợi cảm đã mở cửa cho nỗi nhớ trào dâng mãnh liệt trong tâm hồn nhà thơ. “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi/…/Heo hút cồn mây súng ngửi trời” Quang Dũng đã liệt kê hàng loạt các địa danh như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông… Đó là địa bàn hoạt động của binh đoàn Tây Tiến, những nơi họ đi qua và dừng chân trên bước đường hành quân gian khổ, mệt nhọc. Nói đến Tây Bắc, là nói đến vùng đất có địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt. Có những đêm dài hành quân người lính Tây Tiến vất vả đi trong đêm dày đặc sương giăng, không nhìn rõ mặt nhau. “Đoàn quân mỏi” nhưng tinh thần không “mỏi”. Bởi ý chí quyết tâm ra đi vì tổ quốc đã làm cho những trí thức Hà thành yêu nước trở nên kiên cường, bất khuất hơn. Quang Dũng đã rất tài tình khi đưa hình ảnh “sương” vào đây để khắc hoạ hơn sự khắc nghiệt của núi rừng Tây Bắc trong những đêm dài lạnh lẽo. Cũng miêu tả về “sương”, Chế Lan Viên cũng đã viết trong “Tiếng hát con tàu” “Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủNơi nao qua lòng lại chẳng yêu thươngKhi ta ở chỉ là nơi đất ởKhi ta đi đất đã hoá tâm hồn” Có lẽ thiên nhiên rất gắn bó với người lính Tây Bắc nên nó đã trở thành kí ức khó phai trong lòng nhà thơ. Thiên nhiên tuy có đẹp nhưng cũng rất hiểm trở. Có những lúc người lính Tây Tiến phải vất vả để trèo lên đỉnh chạm đến mây trời. Quang Dũng đã khéo léo sử dụng từ “thăm thẳm” mà ko dùng từ “chót vót” bởi nói “chót vót” người ta còn có thể cảm nhận và thấy được bề sâu của nó nhưng “thăm thẳm” thì khó có ai có thể hình dung được nó sâu thế nào. Bằng những từ láy gợi hình ảnh rất cao như “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút”, nhà thơ đã làm cho người đọc cảm nhận được cái hoang sơ, dữ dội của núi rừng Tây Bắc. Nhà thơ cũng rất trẻ trung, tinh nghịch khi đưa hình ảnh nhân hóa, ẩn dụ “súng ngửi trời” để cho ta thấy bên cạnh thiên nhiên hiểm trở còn hiện lên hình ảnh người lính với tư thế oai phong lẫm liệt nơi núi rừng hoang vu. Câu thơ sử dụng nhiều thanh trắc đã tạo nên vẻ gân guốc, nhọc nhằn đã nhấn mạnh được cảnh quang thiên nhiên Tây Bắc thật cheo leo, hiểm trở. “Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống” Điệp từ “ngàn thước” đã mở ra một không gian nhìn từ trên xuống cũng như từ dưới lên thật hùng vĩ, giăng mắc. Bên cạnh cái hiểm trở, hoang sơ ta cũng thấy được vẻ đẹp trữ tình nơi núi rừng “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” Có những cơn mưa rừng chợt đến đã để lại bao giá rét cho người lính Tây Tiến. Nhưng dưới ngòi bút của Quang Dũng, nó trở nên lãng mạn, trữ tình hơn. Nhà thơ đã thông minh, sáng tạo khi nói đến mưa rừng bằng cụm từ “mưa xa khơi”. Nó gợi lên điều gì đó rất kì bí, hoang sơ giữa chốn núi rừng. Câu thơ thứ 8 nhiều thanh bằng như làm dịu đi vẻ dữ dội, hiểm trở của núi rừng và mở ra bức tranh thiên nhiên nơi núi rừng đầy lãng mạn. 8 câu thơ đầu của bài thơ Tây Tiến là nỗi nhớ về núi rừng Tây Bắc, về đồng đội Tây Tiến nhưng qua những chi tiết đặc tả về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc, nó đã trở thành kí ức xa xôi trong tâm trí nhà thơ. Đó là nỗi nhớ mãnh liệt của người lính Tây Tiến nói riêng và của những người lính nói chung. Bài thơ “Tây Tiến” dưới ngòi bút của lãng mạn, trữ tình của Quang Dũng đã trở thành kiệt tác của mọi thời đại. Cảm hứng chủ đạo xuyên suốt bài thơ đó là cảm hứng về nỗi nhớ. Quang Dũng đã miêu tả nỗi nhớ đó bằng ngòi bút tài tình giàu chất nhạc, chất họa và đậm chất thơ. Bài thơ là một khúc nhạc của tâm hồn, của cuộc sống. “Tây Tiến” là 1 bài thơ hay được viết nên bởi tâm hồn , tài hoa, lãng mạn của người lính trí thức tiểu tư sản Quang Dũng. Bài thơ như 1 bức tượng đài bất tử đã tạc vào nền văn học Việt Nam hình ảnh những người lính trí thức yêu nước vô danh. Bài thơ xứng đáng được xem là kiệt tác của Quang Dũng khi viết về người lính trí thức tiểu tư sản hào hoa, phong nhã. Chia sẻ cơ hội 🌿 Nạp Thẻ Ngay Miễn Phí 🌼 Tặng Card Nạp Tiền Ngay Free Mới Nghị Luận Tây Tiến 14 Câu Đầu – Bài 11 Tham khảo bài văn Nghị Luận Tây Tiến 14 Câu Đầu đặc sắc được chia sẻ trên các diễn đàn văn học nổi tiếng. Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu nhất của hồn thơ Quang Dũng và là một trong những bài thơ hay nhất trong số những bài viết về đề tài người lính thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Với sự kết hợp tài tình giữa bút pháp hiện thực và cảm hứng lãng mạn, bài thơ đã khắc hoạ chân thực cuộc sống và chiến đấu đầy gian khổ, sự hy sinh anh dũng và vẻ đẹp hào hoa, hào hùng của người chiến sĩ Tây Tiến. Bức chân dung người lính Tây Tiến oai hùng, lẫm liệt hiện lên rõ ràng qua 14 câu thơ đầu bài thơ. Sự kết hợp giữa cảm hứng lãng mạn và bút pháp hiện thực đã tạo ra chất bi tráng rất đặc biệt cho 14 câu thơ đầu bài thơ, đem đến những màu sắc và âm hưởng mạnh mẽ, hào hùng cho sự hy sinh, mất mát của người chiến sĩ Tây Tiến. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ nhớ đồng đội thân yêu, nhớ đoàn binh Tây Tiến, nhớ bản mường và núi rừng miền Tây, nhớ kỉ niệm đẹp một thời trận mạc… Bốn câu thơ đầu mở ra nỗi nhớ mênh mang “Sông mã xa rồi Tây Tiến ơi !Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”. Nói về nỗi nhớ ấy, bài thơ đã ghi lại hào khí lãng mạn của tuổi trẻ Việt Nam, của “bao chiến sĩ anh hùng” trong buổi đầu kháng chiến chống Pháp vô cùng gian khổ mà vinh quang. Hai câu thơ đầu nói lên nỗi nhớ, nhớ miền Tây, nhớ núi rừng, nhớ dòng sông Mã thương yêu. Đã “xa rồi” nên nỗi nhớ không thể nào nguôi được, nhớ da diết đến quặn lòng, đó là nỗi nhớ “chơi vơi”. Tiếng gọi “Tây Tiến ơi” vang lên tha thiết như tiếng gọi người thân yêu. Từ cảm “ơi!” bắt vần với từ láy “chơi vơi” tạo nên âm hưởng câu thơ sâu lắng, bồi hồi, ngân dài, từ lòng người vọng vào thời gian năm tháng, lan rộng lan xa trong không gian. Hai chữ “xa rồi” như một tiếng thở dài đầy thương nhớ, hô ứng với điệp từ “nhớ” trong câu thơ thứ hai thể hiện một tâm tình đẹp của người chiến binh Tây Tiến đối với dòng sông Mã và núi rừng miền Tây. Sau tiếng gọi ấy, biết bao hoài niệm về một thời gian khổ hiện về trong tâm tưởng. Những câu thơ tiếp theo nói về chặng đường hành quân đầy thử thách gian nan mà đoàn binh Tây Tiến từng nếm trải “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi/…/Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Các tên bản, tên mường Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu… được nhắc đến không chỉ gợi lên bao thương nhớ vơi đầy mà còn để lại nhiều ấn tượng về sự xa xôi, heo hút, hoang dã, thâm sơn cùng cốc,… Nó gợi trí tò mò và háo hức của những chàng trai “Từ thuở mang gươm đi giữ nước – Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long”. Đoàn binh hành quân trong sương mù giữa núi rừng trùng điệp Bao núi cao, đèo cao, dốc thẳng dựng thành phía trước mà các chiến sĩ Tây Tiến phải vượt qua. Dốc lên thì “khúc khuỷu” gập ghềnh, dốc xuống thì “thăm thẳm” như dẫn đến vực sâu. Các từ láy “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” đặc tả gian khổ, gian truân của nẻo đường hành quân chiến đấu “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm – Heo hút cồn mây súng ngửi trời!”. Đỉnh núi mù sương cao vút. Mũi súng của người chiến binh được nhân hóa tạo nên một hình ảnh “súng ngửi trời” giàu chất thơ, mang vẻ đẹp cảm hứng lãng mạn, cho ta nhiều thi vị. Nó khẳng định chí khí và quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao mà đi tới “Khó khăn nào cũng vượt qua – Kẻ thù nào cũng đánh thắng!”. Thiên nhiên núi đèo xuất hiện như để thử thách lòng người “ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”. Hết lên lại xuống, xuống thấp lại lên cao, đèo nối đèo, dốc tiếp dốc, không dứt. Câu thơ được tạo thành hai vế tiểu đối “Ngàn thước lên cao // ngàn thước xuống”, hình tượng thơ cân xứng hài hòa, cảnh tượng núi rừng hùng vĩ được đặc tả, thể hiện một ngòi bút đầy chất hào khí của nhà thơ – chiến sĩ. Có cảnh đoàn quân đi trong mưa “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Câu thơ được dệt bằng những thanh bằng liên tiếp, gợi tả, sự êm dịu, tươi mát trong tâm hồn những người lính trẻ, trong gian khổ vẫn lạc quan yêu đời. Trong màn mưa rừng, tầm nhìn của người chiến binh Tây Tiến vẫn hướng về những bản mường, những mái nhà dân hiền lành và yêu thương, nơi mà các anh sẽ đến, đem xương máu và lòng dũng cảm để bảo vệ và giữ gìn. Gian khổ không chỉ là núi cao dốc thẳm, không chỉ là mưa lũ thác ngàn mà còn có tiếng gầm của cọp, beo nơi rừng thiêng nước độc, nơi đại ngàn hoang vu “Chiều chiều oai linh thác gầm thétĐêm đêm Mường Hịch cọp trêu người” “Chiều chiều…” rồi “đêm đêm” nhưng âm thanh ấy, “thác gầm thét”, “cọp trêu người”, luôn khẳng định cái bí mật, cái uy lực khủng khiếp ngàn đời của chốn rừng thiêng. Chất hào sảng trong thơ Quang Dũng là lấy ngoại cảnh núi rừng miền Tây hiểm nguy để tô đậm và khắc họa chí khí anh hùng của đoàn quân Tây Tiến. Mỗi vần thơ đã để lại trong tâm trí người đọc một ấn tượng gian nan tột bậc mà cũng can trường tột bậc! Đoàn quân vẫn tiến bước, người nối người, băng lên phía trước. Uy lực thiên nhiên như bị giảm xuống và giá trị con người như được nâng cao hẳn lên một tầm vóc mới. Quang Dũng cũng nói đến sự hy sinh của đồng đội trên những chặng đường hành quân vô cùng gian khổ “Anh bạn dãi dầu không bước nữaGục lên súng mũ bỏ quên đời…” Hiện thực chiến tranh xưa nay vốn như thế! Sự hy sinh của người chiến sĩ là tất yếu. Xương máu đổ xuống để xây đài tự do. Vần thơ nói đến cái mất mát, hy sinh nhưng không chút bi luỵ, thảm thương. Hai câu cuối đoạn thơ, cảm xúc bồi hồi tha thiết. Như lời nhắn gửi của một khúc tâm tình. Như tiếng hát của một bài ca hoài niệm, vừa bâng khuâng, vừa tự hào “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khóiMai Châu mùa em thơm nếp xôi” Qua 14 câu thơ đầu bài thơ Tây Tiến là một trong những bài thơ hay nhất viết về người lính trong 9 năm kháng chiến chống Pháp. Bức tranh thiên nhiên hoành tráng, trên đó nổi bật lên hình ảnh chiến sĩ can trường và lạc quan, đang dấn thân vào máu lửa với niềm kiêu hãnh “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh…”. Đoạn thơ để lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành công, là kết hợp hài hoà giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Nửa thế hệ đã trôi qua, bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng ngày một thêm ý nghĩa. Đừng bỏ qua bài 🔥 Cảm Nhận Về Hình Tượng Người Lính Tây Tiến ❤️️ Ngoài bài Nghị Luận Tây Tiến Nghị Luận Tây Tiến Đoạn 1 – Bài 12 Nghị Luận Tây Tiến Đoạn 1 sẽ giúp các em học sinh tham khảo cách hành văn súc tích, ngắn gọn mà vẫn giàu ý nghĩa diễn đạt. Hình ảnh người lính là đề tài quen thuộc khơi nguồn cảm hứng cho các nhà văn, nhà thơ. Quang Dũng cũng là một tác giả có đóng góp quan trọng cho thơ văn của chủ đề này qua bài thơ Tây Tiến. Bài thơ chứa đựng những giá trị, ý nghĩa sâu xa, đặc sắc, đặc biệt là đoạn thơ đầu tiên. “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi.” Câu cảm thán thể hiện sự tiếc nuối của tác giả về những ngày cùng binh đoàn Tây Tiến hoạt động, chiến đấu nay đã trôi xa chỉ còn lại kí ức và nỗi nhớ. Nỗi nhớ ấy được khắc họa bằng từ láy “chơi vơi”. Đó là nỗi nhớ lênh đênh, vô định nhưng luôn thường trực trong lòng người chiến sĩ. Không chỉ nhớ những người đồng chí, đồng đội, anh còn nhớ cả rừng núi, nhiên nhiên, những nơi mình đã đặt chân qua. Tất cả luôn thường trực trong kí ức, da diết, ngân vang bao trùm cả không gian và thời gian. “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,Mường Lát hoa về trong đêm hơi.” “Sài Khao” là nơi đoàn quân mỏi mòn trong lớp sương mờ dày đặc để đi đến chiến trường; “Mường Lát” gắn với những đêm ẩm ướt đọng đầy hơi nước và hương hoa. Đó là những địa danh mà binh đoàn đi gợi những kỉ niệm về một vùng núi cao, sương mờ, không gian tuy khó khăn, thiếu thốn nhưng cũng vô cùng thơ mộng, trữ tình. “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,/…/Nhà ai Pha Luông, mưa xa khơi.” Từ láy “khúc khuỷu, thăm thẳm” gợi sự hiểm trở của thiên nhiên. Đường hành quân của người chiến sĩ không những dài mà còn gập ghềnh, khúc khuỷu, sâu hun hút chất chứa nhiều nguy hiểm. Bên cạnh đó, người lính còn phải vượt qua những ngọn núi cao, dốc sâu vắng lặng, hoang vu cảm giác mũi súng chạm đến tận trời xanh; cứ thế, lên cao lại xuống thấp vô cùng khó khăn, gian khổ. Tuy nhiên, sau những gian khổ đó, người chiến sĩ lại nhận về phần thưởng xứng đáng đó là hình ảnh “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Đứng ở trên cao phóng ánh nhìn ra xa, thu vào tầm mắt của mình là cảnh làng xóm Pha Luông mờ ảo trong lớp sương vô cùng thơ mộng hiếm nơi nào có được. Tuy nhiên, bên cạnh vẻ đẹp, sư phấn chấn đó cũng là những nỗi buồn sâu thẳm “Anh bạn dãi dầu không bước nữaGục lên súng mũ bỏ quên đời!” Những khó khăn, gian khổ đôi khi làm người chiến sĩ nản chí, muốn buông xuôi. Và cả sự ra đi, hi sinh của những người đồng chí giống như anh em ruột thịt của mình càng làm cho người lính Tây Tiến đau xót. Cùng nhau chung sống, chiến đấu là thế nhưng lại có người ở người đi thử hỏi sao không khỏi buồn rầu? Nhưng không vì thế mà người chiến sĩ buông xuôi, mà đó là minh chứng cho tấm lòng dạt dào tình cảm yêu thương của họ. “Chiều chiều oai linh thác gầm thét,Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.” Từ láy “chiều chiều, đêm đêm” gợi tần suất thường xuyên, liên tục của những gian khó. Người chiến sĩ luôn phải đối mặt với nguy hiểm rình rập nơi rừng thiêng nước độc bằng tiếng cọp, bằng thác dữ có thể cướp đi sinh mạng của họ bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, họ chọn cách đối mặt với chứng bằng sự dí dỏm, hài hước bằng cách coi như đó là những lời trêu đùa bên tai để cố gắng, vững tin chiến đấu. Không chỉ nhớ về khó khăn, gian khổ, người lính Tây Tiến còn nhớ về những kỉ niệm cùng người dân ở vùng đất nơi mình đi qua “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khóiMai Châu mùa em thơm nếp xôi.” Người chiến sĩ nhớ về ngày mùa ở Mai Châu, những gia đình lên khói nấu cơm đầu mùa, những hương vị nếp xôi của và cả những cô gái nơi đây. Tất cả đều là những kỉ niệm vô cùng đẹp đẽ, đáng yêu, đáng trân quý. Đoạn thơ không chỉ khắc họa thành công vẻ đẹp hào hoa, bi tráng của người lính Tây Tiến mà còn mang đến cho bạn đọc cách nhìn mới mẻ về những con người này. Bằng thể thơ tự do, những miêu tả sáng tạo, thú vị, giọng điệu hài hước, vui tươi, nhà thơ đã làm nên một tác phẩm giàu ý nghĩa và đậm tính nhân văn. Tặng Bạn 🌼Thẻ Mobi Miễn Phí ❤️ Tặng Thẻ Cào Mobifone Chưa Cào Nghị Luận Tây Tiến Đoạn 2 – Bài 13 Chia sẻ đến bạn đọc bài văn Nghị Luận Tây Tiến Đoạn 2 hay nhất được nhiều bạn đọc yêu thích sau đây. Trong vườn hoa của thơ ca kháng chiến chống Pháp, bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng – nở ra từ một tâm hồn phóng khoáng, hồn hậu, hào hoa, một ngòi bút tình tế và lãng mạn – được coi là bông hoa đầu mùa vừa đẹp vừa lạ. Bài thơ không chỉ khắc hoạ thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở hay những gian khó trập trùng nơi núi cao vực sâu mà bên cạnh đó, ta cũng có cơ hội được cảm nhận bức tranh thiên nhiên gợi cảm, nên thơ cùng những giờ phút liên hoan tưng bừng, lãng mạn giữa những tháng năm khói lửa hào hùng. Và 8 câu thơ ở khổ thơ thứ hai là những vần thơ đã khắc hoạ rõ nhất vẻ đẹp lãng mạn ấy. Nếu đoạn thơ đầu tiên của Tây Tiến mở ra trước mắt người đọc không gian hùng vĩ, hiển trở của núi rừng Tây Bắc thì với 8 câu thơ tiếp theo của khổ thơ thứ hai, bạn đọc sẽ được hoà mình vào không gian từng bừng của buổi liên hoan doanh trại và sự lãng mạn, nên thơ của chiều sương Châu Mộc “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoaKìa em xiêm áo tự bao giờ” Chữ “bừng” như một nét vẽ có thần, nó làm cho không gian như sáng bừng lên trong âm thanh, trong ánh lửa bập bùng và trong hơi ấm của tỉnh quân dân cá nước. Trong không gian ấy, người lính Tây Tiến phải ngạc nhiên đầy tình tứ, mà thốt lên hai tiếng “kìa em”. Giây phút này đây họ nhưng rũ bỏ tất cả mọi gian truân, mệt mỏi được cùng hòa mình theo giai điệu của những bản nhạc nơi rừng núi, để sống trọn vẹn, trẻ trung, tận hưởng niềm vui với một tâm hồn lãng mạn “Khèn lên man điệu nàng e ấpNhạc về Viên Chăn xây hồn thơ” Ban đầu là “em” tiếp đến là “nàng” rồi sau lại là “em”. Từ cách sử dụng ấy ta cảm nhận được em như một nàng tiên kiều diễm và ta như lạc vào cõi thần tiên với không khí mê say đến ngây ngất. Bốn câu thơ không chỉ khắc hoạ chân thực và lãng mạn buổi liên hoan doanh trại nơi vùng cao mà còn làm hiện lên tâm hồn trẻ trung, hào hoa của những người lính Tây Tiến, họ anh dũng, họ phi thường nhưng cũng có những giờ phút, những cảm xúc hết sức đời thường. Không chỉ thế, đoạn thơ còn làm nổi bật tình quân dân cá nước ấm nồng, dõi theo, tiếp thêm sức mạnh cho những chiến sĩ trên chiến trường gian lao, khói lửa. “Người đi Châu Mộc chiều sương ấy/…/Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” Thì ra không chỉ có những “dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm”, hay “ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” mà thiên nhiên miền cao Tây Bắc cũng có những nét đẹp hoang sơ, thơ mộng như vậy. 4 câu thơ với những nét chấm phá, tả ít mà gợi nhiều như vẽ nên một bức tranh thiên nhiên quá đôi nên thơ, quyến rũ. Hình ảnh “lau” hiện lên không phải là một bông, một nhành, một bờ, mà là “hồn lau”, dường như chẳng có một hình dung cụ thể nào, mà ta chỉ có thể cảm nhận ở đâu đây một chuyển động nhẹ nhàng, gợi cảm. Tính từ “đong đưa” gơi nên một chuyển động nhẹ nhàng, tinh tế của bông hoa, như đang làm dáng làm duyên giữa dòng nước lũ đang dữ dội cuộn trào. Thật là một vẻ đẹp nguyên sơ, thanh khiết và gợi cảm đến nao lòng. Bằng ngòi bút tài hoa hữu nhạc, hữu hoạ, kết hợp với những bút pháp miêu tả độc đáo, Quang Dũng đã khắc hoạ thành công bức tranh thiên nhiên mang vẻ đẹp thơ mộng của Tây Bắc và những dấu ấn vui tươi của một thời chiến đấu bên đồng đội. Cũng chính đoạn thơ đã thể hiện rõ nét nhất cảm hứng lãng mạn, tâm hồn hào hoa và chất lãng tử của nhà thơ “xứ Đoài mây trắng”. 8 câu thơ đã góp một phần không nhỏ vào thành công của tác phẩm nói riêng và văn thơ cách mạng nói chung, để Tây Tiến trở thành một bông hoa mãi tươi xanh trong dòng chảy của thời gian. Giới Thiệu Bài 💧 Bình Giảng Tây Tiến ❤️️ Ngoài Bài Nghị Luận Tây Tiến Nghị Luận Tây Tiến Đoạn 3 – Bài 14 Bài văn Nghị Luận Tây Tiến Đoạn 3 sẽ giúp các em học hỏi được phương pháp làm bài văn hiệu quả và hấp dẫn. Những bài thơ hay thường tạo nên nhiều kiểu rung cảm thẩm mỹ nơi người đọc, thậm chí còn gây nên nhiều tranh luận xung quanh các câu chữ, hình ảnh, cảm xúc… Tây Tiến của Quang Dũng là một trong những bài thơ như thế. Nếu như ở hai đoạn đầu của bài thơ, người đọc được tiếp cận với hình ảnh người lính một cách gián tiếp thì đoạn thơ thứ ba trực tiếp khắc họa chân dung người lính Tây Tiến Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc/…/Sông Mã gầm lên khúc độc hành. Hình tượng người lính trong thơ Quang Dũng thấp thoáng dáng dấp của những chinh phu trong văn học cổ, hay người hùng nước Vệ dứt áo lên đường, không hẹn ngày trở lại.. Thời chống Pháp, thơ viết về anh bộ đội thường viết về những người nông dân mặc áo lính với vẻ đẹp bình dị, mộc mạc. Người lính trong Tây Tiến của Quang Dũng vừa có những đặc điểm riêng lại vừa được khắc họa theo một bút pháp riêng. Bằng bút pháp lãng mạn và tinh thần bi tráng triển khai trên nền ký ức nỗi nhớ, Quang Dũng đã dựng lên tượng đài bằng thơ về người lính Tây Tiến. Đó là bức chân dung lẫm liệt, oai hùng Tây Tiến đoàn binh không mọc tócQuân xanh màu lá dữ oai hùm “Đoàn binh không mọc tóc” là hình ảnh đoàn quân bị rụng hết tóc, hậu quả của những cơn sốt rét rừng hoặc phải sống miền “rừng thiêng nước độc”; “quân xanh màu lá”. Nghĩa là đoàn quân có nước da xanh như tàu lá – đây cũng là hậu quả của những cơn sốt rét rừng cả, do gian khổ và thiếu thốn Thế nhưng đoàn binh vẫn toát lên vẻ “dữ oai hùm”, nghĩa là vẫn dữ tợn như loài hổ báo của rừng xanh. Đây là cách ví người hùng theo lối cổ chứ không phải “làm xấu đi hình ảnh anh bộ đội” như có người đã nghĩ. Vẻ đẹp của câu thơ chính là ở tinh thần bi tráng lẫm liệt của đoàn binh Tây Tiến một vẻ đẹp có sự cộng hưởng của âm vang truyền thống và tinh thần thời đại, giữa những người chiến binh năm xưa với những người lính cụ Hồ hôm nay. Hai câu thơ tiếp theo đã khắc họa một cách sinh động đời sống tâm hồn của những chiến sĩ Tây Tiến Mắt trừng gửi mộng qua biên giớiĐêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm Chiến tranh thật tàn khốc nhưng chiến tranh không thể cướp được chất hào hoa của những chàng trai Hà thành. Không gì có thể ngăn được những phút giây mơ mộng trong tâm hồn người lính. Quang Dũng thể hiện tình cảm của người lính qua giấc mơ, khiến cho nỗi nhớ cũng lãng mạn như chính tâm hồn họ vậy. Giấc mơ đã nâng đỡ tâm hồn con người. Thật sang trọng và hào hoa! Nói đến chiến tranh, nói đến đời lính không thể không nói đến cái chết. Quang Dũng cũng không né tránh và nhà thơ đã nói theo cách riêng của mình Rải rác biên cương mồ viễn xứ/…/Sông Mã gầm lên khúc độc hành. Ý nghĩa câu thơ mở ra thật lớn “rải rác” đây đó nơi “biên cương”, những nấm mồ “viễn xứ” không một vòng hoa, không một nén hương, thật lạnh lẽo, thê lương. Bức tranh chiến trận sẽ trở nên ảm đạm nếu nhìn bi quan như vậy. Nhưng hồn thơ Quang Dũng mỗi khi chạm vào cái bi thương lại được nâng đỡ bởi đôi cánh lí tưởng. Câu thơ sau như một lực nâng vô hình đã đưa câu thơ trước lên cao. “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Cái bi thảm bỗng trở nên bi tráng. Với tinh thần dấn thân, tự nguyện, quãng đời thanh xuân tươi đẹp nhất họ đã hiến dâng cho một lý tưởng cao đẹp nhất. Họ ngã xuống thanh thản không chút vướng bận, không mảy may hối tiếc, cái chết được xem “nhẹ tựa lông hồng”. Viết về chiến tranh, nhiều nhà thơ đã né tránh cái chết. Còn Quang Dũng cảm nhận cái chết như là một hiện thực tất yếu của chiến tranh. Cái chết của những người lính qua con mắt thơ Quang Dũng rất đỗi hùng tráng mà không hề giả dối. Cái bi tráng của câu thơ đã khẳng định được phương châm sống của cả một thế hệ cha anh trong những năm tháng chống Pháp gian khổ “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Có hiểu được ý chí sắt đá của một dân tộc mới thấy hết được cái hay trong câu thơ Quang Dũng. Hai câu sau vẫn tiếp tục nói đến cái chết trong âm hưởng sử thi hào hùng ấy Áo bào thay chiếu anh về đấtSông Mã gầm lên khúc độc hành. Con mắt thơ Quang Dũng đã bao bọc đồng đội mình trong những tấm áo bào sang trọng. “Áo bào” là sự kết hợp hai từ “áo vải” và “chiến bào” khiến cho “áo bào” vừa bình dị vừa sang trọng. Đây là cách nói mà theo Quang Dũng là để “an ủi linh hồn những người lính”. Xuất phát điểm là tình yêu đồng đội. Chính tình yêu thương đã khiến hồn thơ hào hoa Quang Dũng tìm được hình ảnh đẹp để “sang trọng hóa” cái chết của người lính. Người lính ngã xuống với chiến bào đỏ thắm trong vầng hào quang lồng lộng của các chiến binh xưa. “Áo bào thay chiếu anh về đất”. Câu thơ mang sức mạnh ngợi ca. Không thể tìm được từ nào hay hơn để thay thế cho từ “về đất” trong câu thơ này. “Về đất” không những diễn tả được sự hi sinh của người chiến sĩ mà còn thể hiện được sự trân trọng, yêu thương của những người đồng đội ở lại. “Về đất” cũng là hòa vào linh hồn đất nước để bất tử cùng hồn thiêng sông núi và trường tồn cùng đất nước. Dòng sông Mã đã tấu lên “khúc độc hành” dữ dội hùng tráng để tiễn đưa hương hồn người chiến sĩ với bao tiếc thương, cảm phục. Những mất mát đau thương như dồn nén, tích tụ trong tiếng gầm vang rung chuyển cả núi rừng của dòng sông Mã. Các anh đã hi sinh cho mảnh đất nảy nở đầy thơ, đầy nhạc và cùng với thiên nhiên, linh hồn các anh vẫn hát mãi khúc quân hành. Đây là đoạn thơ mang tính chất cao trào trong toàn bộ khúc độc hành Tây Tiến. Chất bi tráng đã tạo nên một tượng đài độc đáo về người lính Tây Tiến. Đoạn thơ khép lại nhưng cùng với khúc độc hành của dòng sông Mã, âm hưởng của Tây Tiến vẫn vang cả núi rừng và vọng qua năm tháng. Đón đọc bài 🌼Phân Tích Hình Tượng Người Lính Tây Tiến ❤️ 10 Mẫu Văn Nghị Luận Tây Tiến Đoạn 4 – Bài 15 Bài văn mẫu Nghị Luận Tây Tiến Đoạn 4 đặc sắc nhất với những phân tích cụ thể về từng câu thơ, nội dung và nghệ thuật được tác giả sử dụng. Một bản nhạc hay là một bản nhạc không chỉ đoạn điệp khúc hay đoạn mở đầu hay mà đoạn cuối cũng phải hay, một tác phẩm văn học hay là một tác phẩm không chỉ hay phần mở đầu, phần nội dung và phần kết thúc cũng mang tính gợi mở hay hướng người đọc tưởng tượng đến một viễn cảnh nọ. Bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng có những đoạn nói về những cuộc hành quân gian khổ, những đêm liên hoan văn nghệ hay bức tượng đài người lính Tây Tiến rất ý nghĩa, rất hay. Thế nhưng lại có rất ít người biết rằng bốn câu thơ cuối bài thơ cũng rất đáng được chú ý. Bởi đây là một đoạn thơ thể hiện được tấm lòng của nhà thơ dành cho Tây Tiến. Hai câu thơ đầu thể hiện nỗi lòng của nhà thơ đối với đồng đội, những người còn sống và những người đã ngã xuống Tây Tiến người đi không hẹn ướcĐường lên thăm thẳm một chia phôi Những người lính cùng là những người tri thức nhưng trước khi gia nhập đoàn binh Tây Tiến họ không hề biết nhau. Họ đều là những người xa lạ, họ không hẹn nhau tòng quân đi giết giặc, cũng chẳng hẹn nhau đi lính là sẽ có ngày trở về. Đoàn quân Tây Tiến chính là nơi gắn kết họ lại thành một gia đình, thành những anh em gắn bó khăng khít. Đường đi của Tây Tiến càng đi là càng chia phôi, giữa cái ác liệt của chiến tranh, giữa sự tàn ác của lũ giặc khốn nạn họ không xác định sự chia phôi vừa lớn, vừa thăm thẳm như ngàn thước của núi cao kia. Những người đồng đội của Quang Dũng đã đi và không hẹn ngày trở lại. Trước thực tế hiện tại, xuất phát từ tình đồng chí đồng đội, từ tình quân dân keo sơn, từ những kỉ niệm và nỗi nhớ nhà thơ Quang Dũng khẳng định tâm hồn của mình luôn gắn bó với Sầm Nứa Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấyHồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi. “Ai” là đại từ chỉ nhà thơ hay chỉ người lính Tây Tiến, nó không được xác định. Có lẽ nhà thơ cố tình nói như thế để thay mặt cho tất cả những người lính trong đoàn quân Tây Tiến dù còn sống hay đã chết đều trở về Sầm Nưa. Họ không sinh ra ở mảnh đất biên cương heo hút, gian nan ấy nhưng họ lại nguyện gắn bó tâm hồn mình với nó. Bởi nơi này chất chứa biết bao nhiêu kỉ niệm của Tây Tiến, cũng ở nơi đó biết bao nhiêu nấm mồ của những người anh hùng Tây Tiến “dãi dầu” cuộc đời mà nằm lại. Đúng như nhà thơ Chế Lan Viên đã viết “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”. Nhà thơ Quang Dũng và những người lính Tây Tiến không sinh ra ở mảnh đất biên cương Sầm Nứa nhưng những kỉ niệm họ có ở đó, thời gian hoạt động ở đó dẫu là gian nan vất vả nhưng khi qua rồi nó in dấu trong lòng họ sâu đậm. Đoạn thơ thể hiện rõ được tâm tình của nhà thơ dành cho mảnh đất và con người nơi biên cương cửa ải. Đừng bỏ lỡ cơ hội 🍀 Nhận Thẻ Cào 100k Miễn Phí 🍀 Card Viettel Mobifone Tây Tiến là bài thơ hay của Quang Dũng. Phân tích 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến, ta sẽ thấy được quá khứ đau thương nhưng hào hùng của dân tộc. Kháng chiến chống Pháp đã đi qua, nhưng qua những vần thơ, bài hát, chúng ta vẫn có thể cảm nhận được một quá khứ đau thương nhưng hào hùng của dân tộc. Quang Dũng với tác phẩm “Tây Tiến” đã đưa vào văn chương kháng chiến một luồng gió mới. Thông qua việc phân tích 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến, ta sẽ thấy được hình ảnh quả cảm, đau thương nhưng đầy mộng mơ của những người lính tri thức bấy giờ. Khái quát tác giả, tác phẩm Quang Dũng thuộc lớp nhà thơ trưởng thành từ kháng chiến chống Pháp. Không chỉ viết thơ hay, ông còn được biết đến là một nghệ sĩ tài năng với khả năng viết văn, soạn nhạc, vẽ tranh. Sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, tâm hồn nhà thơ vì thế cũng đầy mơ mộng. Cũng bởi thế mà thơ của ông phóng khoáng mà hồn hậu, lãng mạn và tài hoa. Chân dung tác giả Quang Dũng Phân tích 14 câu đầu bài thơ Tây tiến dể thấy Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập năm 1947, là là giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Nghe theo tiếng gọi của Đảng, nhiều học sinh – sinh viên đã lên đường tham gia kháng chiến, phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào. Họ lên đường với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Trong quá trình chuyển sang đơn vị khác, Quang Dũng đã nhớ về Tây Tiến và sáng tác nên bài thơ này. Bài thơ được in trong tập thơ “Mây đầu ô” năm 1986. Ban đầu, bài thơ có nhan đề là “Nhớ Tây Tiến”, sau đó được đổi thành “Tây Tiến”. Việc bỏ từ “nhớ” đã giúp cho tâm tư, tình cảm của Quang Dũng trở nên kín đáo hơn. Luận điểm 1 Ký ức về núi rừng Tây Bắc và đoàn quân Tây Tiến Mở đầu bài thơ, Quang Dũng đã tập trung khắc hoạ lại núi rừng Tây Bắc và đoàn quân Tây Tiến. Điều đặc biệt là khung cảnh ấy hiện về trong ký ức của người lính trẻ “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi Qua hồi ức của tác giả, hình ảnh “Sông Mã”, “Tây Tiến” giờ đây đều như trở thành những người thân thương ruột thịt. Mà với nơi đây, Quang Dũng dành trọn vẹn tình cảm nhớ thương của mình. Cụm từ “nhớ chơi vơi” gợi tả một nỗi nhớ rất lạ lùng. Đó là nỗi nhớ của những người lính đến từ phố thị xa hoa, nỗi nhớ làm tim như chững lại, chới với, không có điểm dừng. Nỗi nhớ ấy, vừa nhẹ nhàng, lại vừa mãnh liệt đến lạ. Dường như núi rừng Tây Bắc đã khắc sâu vào tâm hồn những người lính trẻ biết bao điều. Đó là những kỷ niệm không bao giờ quên trong suốt cuộc đời, và hơn cả, đó cũng là nỗi trống trải, lạc lõng, đậm nỗi nhớ và nỗi buồn man mác trong lòng thi sĩ Quang Dũng. ĐỌC THÊM NGHỊ LUẬN VĂN HỌC CHẤT HỌA CHẤT NHẠC TRONG "TÂY TIẾN" Luận điểm 2 Hình ảnh núi rừng Tây Bắc và con đường hành quân gian khổ của những người lính Sau hai câu thơ đầu miêu tả nỗi nhớ, hình ảnh núi rừng Tây Bắc và con đường hành quân gian khổ của những người lính được miêu tả rõ nét. Qua ngòi bút tài hoa của Quang Dũng, không gian hiện lên đầy chất thơ “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi. Mường Lát hoa về trong đêm hơi.” “Sài Khao”, “Mường Lát” đều là những địa danh gợi nhắc về địa bàn hoạt động của binh đoàn Tây Tiến. Nó càng làm nhân lên nỗi nhớ “chơi vơi” của tác giả với hình ảnh “sông Mã” ở đầu. Thế nhưng đến đây, không gian đã được mở rộng hơn, với nhiều chi tiết khơi gợi kỉ niệm hơn. Vùng núi Sài Khao sương giăng kín lối, dường như chôn lấp đi hình ảnh “đoàn quân mỏi” sau chặng đường dài. Cùng với sự “mỏi” sau chặng hành quân, ngọn đuốc hoa bập bùng trong đêm tối đều là những kỉ niệm khơi gợi và chứng minh nỗi nhớ vô cùng của tác giả. Quang Dũng đã sử dụng động từ “hoa về” thay vì “hoa nở”, “đêm hơi” chứ không phải “đêm sương”. Cách kết hợp từ này gợi tả không gian đầy trữ tình, huyền ảo, lung linh như không có thực. Giờ đây, nỗi nhớ của nhà thơ như dàn trải khắp không gian rộng lớn. Mỗi nơi mà nơi bước chân người lính đã đi qua, họ đều dành những tình cảm yêu thương đặc biệt, khiến chúng trở thành những kỷ niệm khắc sâu trong lòng mãi mãi không thể quên. Những người lính Tây Tiến Tiếp theo những vẫn thơ trữ tình, Quang Dũng lại sử dụng các câu thơ mạnh hơn, gợi lên sự hiểm trở của núi rừng Tây Bắc. Qua đó cho thấy sự vất vả, khó khăn và những nỗ lực kiên cường của người lính khi hành quân chiến đấu “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời.” Sử dụng câu thơ toàn thanh trắc, tác giả đã gợi ra một địa hình vô cùng hiểm trở. Cùng với các từ láy “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, cái vất vả, khổ cực lại càng được nhân lên. Thế nhưng vượt lên cái khó khăn ấy, người lính vẫn luôn mang một tâm hồn lãng mạn. Hình ảnh nhân hóa “súng ngửi trời” hiện lên vô cùng thú vị. Nó đã thể hiện một tâm hồn lãng mạn, hồn nhiên và rất đỗi hài hước của người lính chiến trong hoàn cảnh chiến đấu nhiều khó khăn, thiếu thốn. Câu thơ “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” lại gợi ra vẻ đẹp của sự sống, sự thi vị lãng mạn giữa núi rừng hoang vu. Sử dụng thanh bằng cùng hình ảnh “mưa xa khơi”, Quang Dũng gợi lên sự bình yên, ấm áp. Đây chính là chốn dừng chân cho người lính sau những ngày hành quân vất vả, khổ cực. ĐỌC THÊM NHẬN ĐỊNH VỀ TÁC GIẢ QUANG DŨNG VÀ THI PHẨM QUANG DŨNG Luận điểm 3 Hình ảnh người lính và kỉ niệm tình quân dân Sau những vần thơ tả cảnh, Quang Dũng viết lên những câu thơ đặc tả người lính, ám ảnh và khắc sâu vào tâm trí độc giả “Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời.” Chỉ với hai câu thơ, tác giả đã lột tả được cái khắc nghiệt của chiến tranh, và cũng trân trọng sự hy sinh cao cả của người lính chiến. Họ đã ra đi, trong tư thế hiên ngang, oai hùng, sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc. Chỉ là “bỏ quên đời” thôi, ra đi thanh thản, nhẹ nhàng, “không bước nữa”, chứ không hề nuối tiếc điều gì. Họ đã chiến đấu và hi sinh trong tư thế ngẩng cao của nòng súng, rồi trở về với đất Mẹ thiêng liêng lại rất đỗi bình thản. Chứng kiến những người đồng đội chiến đấu, rồi ngã xuống, Quang Dũng không khỏi xót xa. Ông thương cảm nhưng cũng khâm phục tinh thần hi sinh của những con người dũng cảm ấy “Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.” Câu thơ đặc tả vẻ oai linh, hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc với kết cấu thơ tân kỳ và các động từ mạnh “gầm”, “trêu”,… đã làm nổi bật sự nguy hiểm tột độ. Đó là cái nguy hiểm luôn rình rập nơi rừng thiêng nước độc của ác thú, của thiên nhiên với thác xối, núi nhọn. Để rồi cuối cùng, nhà thơ như bừng tỉnh khỏi những kỉ niệm của mình. Những hồi ức đó, ngỡ như đang được sống lại, thì vỡ vụn với nỗi nhớ da diết, nồng nàn “cơm lên khói” “thơm nếp xôi”. Tình quân dân tha thiết, ấm nồng với hương lửa, nắm xôi, những ngày còn chiến đấu cứ ám ảnh mãi không thôi. Sau tất cả, con người và tình cảm quân dân luôn là nỗi nhớ đọng lại nơi người lính, là chút nương tựa của tâm hồn họ mỗi khi mỏi mệt, gian nan. Kết bài Chỉ với 14 câu thơ, Quang Dũng đã khắc hoạ được thiên nhiên Tây Bắc với đầy đủ sắc thái khác nhau. Từ đó làm nổi bật hình tượng người lính Tây Tiến nói riêng và những người lính trẻ nói chung. Họ sẵn sàng từ bỏ ánh điện phố thị, buông bút nơi giảng đường để cầm súng chiến đấu. Dù khó khăn, gian khổ chất chồng thì sự quyết tâm, tinh thần lạc quan và tâm hồn mơ mộng vẫn không hề vơi bớt. Nguồn ST Để tham khảo thêm nhiều bài viết hay, và chạy nước rút hiệu quả, hãy đăng ký sở hữu các đầu sách và đăng ký khoá học của HVCH nhé! Link đặt sách Link đăng ký Khóa nền Link đăng kí khoá VIP Cập nhật thêm những bài viết hay tại các kênh truyền thông của HVCH Fanpage Học văn chị Hiên Youtube Học văn chị Hiên - Youtube IG Học văn chị Hiên Tiktok Học văn chị Hiên Nghị luận văn học So sánh Tây Tiến và Chiều Tối Đi dọc vào quyển biên niên sử Việt Nam, ta thấy những tác phẩm không tồn tại một cách độc lập mà liên kết với nhau bằng một liên kết vô hình. Chính nhờ sự liên kết ấy mà các bài thơ được thể hiện ý nghĩa một cách tối đa, trọn vẹn nhất. “Tây Tiến” của Quang Dũng và “Chiều tối” của Hồ Chí Minh cũng có những mối liên kết ấy. Mời bạn đọc tham khảo bài so sánh Tây Tiến và Chiều tối. So sánh Tây Tiến và Chiều tối Mở bài so sánh bài thơ Tây Tiến và bài thơ chiều tối Có những áng thơ chứa đựng trong mình là cả một dòng chảy lịch sử của dân tộc. Là Tây Tiến của Quang Dũng khắc họa bức tranh về người lính Tây Tiến bất chấp khắc nghiệt của tạo hóa, thiên nhiên hay bom đạn khói lửa ra đi với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” thời đầu kháng chiến chống Pháp. Là Chiều tối của Hồ Chí Minh mang hình ảnh người bộ đội cụ Hồ dẫu bị xiềng xích nô lệ trói buộc nhưng tinh thần vẫn hướng về tự do trong kháng chiến. Xem thêm Cảm nhận bài thơ chiều tối của Hồ Chí Minh Phân tích bài thơ chiều tối Thân bài so sánh Tây Tiến và Chiều tối Được viết vào những thời kỳ khác nhau, song cả hai tác phẩm đều tái hiện lại một giai đoạn máu lửa, uy nghiêm lên quyển biên niên sử hào hùng của dân tộc. Bài thơ Tây Tiến Quang Dũng Tây Tiến là đứa con tinh thần thành công nhất của Quang Dũng khi gánh lên người sứ mệnh tái hiện lại hình ảnh những chiến giai đoạn đầu kháng chiến chống Pháp. Tây Tiến còn là sự kết tinh của nỗi nhớ về đồng đội, về những ngày kháng chiến gian lao khi tác giả ngồi ở Phù Lưu Chanh năm 1948 nhớ về những tháng ngày cùng nhau vào sinh ra tử với đồng đội. Tuy vỏn vẹn một năm gắn bó, hình ảnh binh đoàn Tây Tiến vẫn hằn đậm lên tim ông bất chấp chiến tranh và quyện hòa trong từng con chữ. Bài thơ ban đầu có tên là Nhớ Tây Tiến nhưng khi in được ông đổi thành Tây Tiến vì theo ông “Tây Tiến, nhắc đến là đã thấy nỗi nhớ rồi thế nên để từ “Nhớ” là thừa, không cần thiết”. Xem thêm Phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong chiều tối Top 3 cách viết mở bài chiều tối hay nhất Bài thơ Chiều tối Hồ Chí Minh Chiều tối là bài thơ thứ 31 được trích từ tập Nhật ký trong tù, tái hiện lại những ngày tháng Hồ Chí Minh bị giam cầm khổ sai dưới ách thống trị của quân cầm quyền Tưởng Giới Thạch. Có thể nói Nhật ký trong tù như một bản ghi chép tường tận những tháng ngày Bác bị giam cầm nơi xứ người. Đôi lúc là sự bất lực bởi bản thân đang chịu cảnh ngục tù, không thể đứng dậy cùng với đồng bào được bộc lộ mạnh mẽ qua “Buồn bực”. Đôi lúc là tâm hồn thi sĩ say mê với vẻ đẹp của ánh trăng được thể hiện qua “Ngắm trăng”. “Chiều tối” được sáng tác vào cuối năm 1942, trên đường vị lãnh tụ tài ba của Việt Nam bị chuyển lao từ Tĩnh Tây sang Thiên Bảo. Tuy ngục tù gian khổ là thế, bài thơ vẫn toát lên được phong thái ung dung, tự tại, lạc quan, yêu đời. Tinh thần chiến sĩ mạnh mẽ trong Tây Tiến và Chiều tối Ở “Tây Tiến” của Quang Dũng, ta dễ dàng thấy được tinh thần của người chiến sĩ được hiện ra với hai sắc thái bi tráng và là lãng mạn. Ngay từ khổ đầu bài thơ, tác giả đã khắc họa nên bức tranh về quá trình hành quân gian khổ trên nền thiên nhiên Tây Bắc khắt nghiệp. “Sương lấp”, “dốc khúc khuỷu”, “dốc thăm thẳm”, thiên nhiên như muốn làm chùn lại bước chân của binh đoàn Tây Tiến. Thế nhưng thể lực tuy đã hao kiệt nhưng ý chí vẫn vững vàng, kiên trung. Đoàn binh cứ thế tiếp nối nhau từng bước, bất kể phía trước kia “sương lấp” không rõ có gì, hai bên lại là vực sâu trực chờ tước đi mạng sống, họ vẫn khí thế tiến lên. Dẫu biết rằng “Mỗi bước đường mỗi bước hy sinh” nhưng những chàng trai trẻ vỏn vẹn mười chín, đôi mươi vẫn đi lên theo tiếng gọi Tổ Quốc. Tinh thần bất diệt ấy vẫn tồn tại đến tận khi họ nằm xuống, hòa mình vào gấm vóc non sông. Các chiến sĩ hy sinh thân thể, làm tất cả cốt để giành lại sự tự do. Có những chiến sĩ sốt rét rừng ngày đêm chống chọi với cơn đau nơi rừng thiêng nước độc, sẵn sàng cạo trọc đầu để đối phó với những trận giáp lá cá. Thế nhưng, giữa bức tranh hào hùng ấy vẫn hiện lên những vết tích đau thương của chiến tranh, có những chiến sĩ dang dở đoạn đường trên hành trình thực hiện sứ mệnh thiêng liêng. So sánh Chiều tối và Tây Tiến Hình ảnh “đoàn quân mỏi” kết hợp các động từ “dãi dầu”, “gục” cho thấy sự thấm mệt sau những ngày tháng hy sinh. Đó có thể là thoáng nghỉ lưng chóng vánh, cũng có thể là bước chân cuối cùng trước khi trở về cõi vĩnh hằng. Tuy “về đất”, họ vẫn giữ được nét thanh lịch, hào hoa của mình, hy sinh với tấm “áo bào” là màu áo xanh đã đôi chỗ chắp vá, hình ảnh người chiến sĩ vượt lên đỉnh cao của sự bi tráng. Giữa những mất mát, hy sinh ấy, những người chiến sĩ vẫn can trường tiếp bước, ra đi đầu không ngoảnh lại, dùng sinh mạng mình để chiến đấu bởi đây mới là cách thể hiện tấm lòng với những người đồng đội đã hy sinh. Ở “Chiều tối” ta cũng nhận thấy một tinh thần thép vượt qua mọi xiềng xích khổ sai của Bác. Dẫu bị giam cầm trong quá trình hoạt động Cách mạng nhiều năm, bị luân chuyển đến nhiều nhà giam nhưng ở Hồ Chí Minh, ta vẫn thấy một tinh thần bất khuất kiên định. Bất chấp cả thân thể và tinh thần đều kiệt quệ rã rời, Bác vẫn chưa một lần chùn bước, Người đã đánh đổi cả cuộc đời để giành trọn tự do cho dân tộc Việt Nam ta. Xem thêm Phân tích bài thơ Tây Tiến Quang Dũng hay nhất Phân tích đoạn 1 Tây Tiến chi tiết Một đoạn đường chuyển lao dài từ Tĩnh Tây sang Thiên Bảo, tay chân đều bị trói chặt bởi xiềng xích, Bác vẫn kịp thu vào mắt mình những cảnh đẹp của thiên nhiên, của thiếu nữ sơn cước. Những cánh chim mỏi như biểu trưng cho lòng khao khát tự do, Bác muốn được như cánh chim kia chao nghiêng đôi cánh của mình giữa khoảng không vô tận mà không có xiềng xích trói buộc. Tưởng Giới Thạch kia chỉ có thể trói buộc thân xác, vĩnh viễn không thể trói buộc tâm hồn của Bác. “Chim mỏi” còn có rừng để làm chốn ngủ, người tù nhân lúc này cũng thoáng nhớ quê hương, nhớ những khoảnh khắc đoàn tụ. Mỏi mệt sau ngày dài bị áp giải, thế nhưng chất chiến sĩ cùng với thi sĩ trong nhà thơ vẫn hiện hữu, nhà thơ gắng gượng đi tới rồi bắt gặp hình ảnh thiếu nữ sơn cước dưới lăng kính đầy thẩm mỹ. Hình ảnh con người lao động xuất hiện như thổi bùng sức sống cho bức tranh miền núi, cũng như cho tâm hồn người chiến sĩ. Ngọn lửa nơi lò than thiếu nữ xay ngô nhen nhóm lên một ánh lửa hồng, đó cũng là ánh lửa yêu nước rực cháy trong tim Bác, khi thổi bùng lên mãnh liệt, khi cháy một cách âm ỉ nhưng chưa từng mất đi. Có thể quan sát sự vật một cách có hồn, thi vị đến thế, Hồ Chí Minh lúc nào không còn là một tù nhân mà là một người chiến sĩ bất khuất mang trong người dòng máu nghệ sĩ. Xem thêm Tổng hợp Top 5 kết bài Tây Tiến hay nhất Top 5 mở bài Tây Tiến hay nhất Điểm chung trong tinh thần của người chiến sĩ ở hai bài thơ Tây tiến và Chiều tối Hai bài thơ đều khắc họa nên hình tượng những người chiến sĩ bất khuất, ý chí kiên cường vượt lên trên hiện thực khốc liệt để mang đến cho đất nước sự tự do. Luôn yêu đời, nhìn nghịch cảnh với lăng kính lạc quan, không bị khuất phục trước khó khăn, dùng thử thách làm bước đệm để vươn tới ngày mai. Tuy tinh thần người chiến sĩ hào hùng, lẫm liệt nhưng vẫn pha vào đó chất lãng mạn của người thi sĩ. Yêu thiên nhiên và con người lao động, những người chiến sĩ không cứng nhắc, vô cảm mà luôn biểu lộ tinh thần lãng mạn ấy một cách mạnh mẽ. Điểm khác nhau trong tinh thần của người chiến sĩ ở hai bài thơ Người lính Tây Tiến thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp là sự kết tinh của tinh thần bi tráng và lãng mạn được Quang Dũng vẽ nên bằng bút pháp lãng mạn. Những người chiến sĩ ấy hầu hết là sinh viên, tri thức Hà Nội tuổi đời chỉ vỏn vẹn mười chín, đôi mươi, họ đang ở độ tuổi đẹp nhất cuộc đời với đầy những hoài bão, khát khao của tuổi trẻ. Phong cách thơ phóng khoáng, lãng mạn, hào hoa của Quang Dũng cũng đã lột tả gần như đầy đủ hình ảnh những người lính xuất thân từ Hà Nội phồn hoa. Người chiến sĩ trong “Chiều tối” lại mang hình ảnh người bộ đội cụ Hồ với những tính cách giản dị, đơn sơ, mộc mạc, chân chất, đấy cũng chính là tính cách của vị lãnh tụ tài ba của đất nước ta. Phong cách thơ giản dị, mộc mạc kết hợp với sử dụng các bút pháp cổ điển – hiện đại kết hợp với chất thép – chất tình đã khắc họa nên một anh bộ đội cụ Hồ thời kháng chiến chống Pháp thực thụ. Bức tranh thiên nhiên trong Tây Tiến và Chiều tối So sánh Tây tiến và chiều tối trong bức tranh thiên nhiên Tuy chỉ làm nền cho bước đường hành quân gian khổ của binh đoàn Tây Tiến, thiên nhiên nơi Tây Bắc hiện ra dưới muôn ngàn dáng vẻ khác nhau. Có khi là những lớp sương mù dày đặc muốn làm chùn bước chân người lính, có khi là những con dốc trực chờ lấy mạng con người. Nơi rừng thiêng nước độc, có những con vật luôn lẫn vào bóng đêm muốn tước mạng con người. Thế nhưng thiên nhiên Tây Bắc vẫn có những lúc nên thơ đến lạ. Buổi chiều sương Châu Mộc ấy với những khóm hoa lau đong đưa theo gió neo đậu chờ những con thuyền độc mộc đi ngang ngắm nhìn. Hoa đong đưa theo dòng nước lũ một cách nhịp nhàng, uyển chuyển khiến câu thơ chứa đầy thi vị. Bức tranh thiên nhiên của “Chiều tối” hấp dẫn người đọc bởi sự kết tinh giữa cổ điển và hiện đại. Hình ảnh cánh chim mỏi về rừng tìm chốn nghỉ kết hợp với sự lững lờ trôi của những áng mây khiến người tù nhân như thoát khỏi thực tại khốc liệt, hòa mình với sự thanh bình của tạo hóa. Hình ảnh con người đẹp nhất chính là khi lao động, cô thiếu nữ xay ngô khi tia nắng cuối cùng khuất bóng, lò than cứ đỏ lửa lấp lánh những ánh hồng. Xem thêm So sánh Tây Tiến và Đất nước So sánh bài thơ Tây Tiến và Việt Bắc Kết bài nghị luận văn học So sánh Tây tiến và chiều tối So sánh Tây Tiến và Chiều tối, hai bài thơ đều là những bức tranh đẹp về tinh thần của người chiến sĩ trong kháng chiến chống Pháp. Nếu “Tây Tiến” đại diện cho những chiến sĩ lãng mạn, hào hoa thì chiến sĩ “Chiều tối” lại mang đặc điểm mộc mạc, giản đơn. Hai lăng kính về những người chiến sĩ dẫu khác nhau nhưng cũng mang những nét tương đồng là tinh thần hy sinh vì tự do Tổ quốc, sẵn sàng vượt lên hiện thực khắc nghiệt không chút nề hà. Cả hai bài thơ đều để lại cho những thế hệ sau bài học về tinh thần yêu nước, về những chiến sĩ kháng chiến một cách nhân văn. “Nếu như Chính Hữu viết về những chàng vệ quốc bằng bút pháp hiện thực thì Quang Dũng đã tái hiện vẻ đẹp người lính bằng đôi cánh lãng mạn đem đến men say cho thi tứ, sự bay bổng của hình tượng” Nguyễn Đăng Điệp. Đề tài người chiến sĩ – người trực tiếp xông pha vì nền độc lập tự do của Tổ quốc là một đề tài phổ biến trong thơ ca cách mạng. Thế nhưng, mỗi tác giả lại có riêng cho mình một cảm nhận khác nhau về vẻ đẹp của những người cầm súng. Đối với Quang Dũng, hình tượng những người lính Tây Tiến trong ông được tái hiện bằng “đôi cánh lãng mạn”. Quang Dũng là một người nghệ sĩ đa tài, ngoài sáng tác văn chương ông còn soạn nhạc và vẽ tranh. Ông có một hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn, hào hoa – đặc biệt là khi ông viết về người lính Tây Tiến và xứ Đoài tức Sơn Tây – quê hương ông. Bài thơ Tây Tiến là sự thăng hoa trong sự nghiệp văn học của Quang Dũng. Được sáng tác năm 1948, khi Quang Dũng ở Phù Lưu Chanh công tác ở đơn vị mới và nhớ về những tháng ngày cũ tại trung đoàn 52 Tây Tiến. Đoạn thơ đầu tiên gồm 14 câu diễn tả nỗi nhớ da diết của ông về thiên nhiên miền viễn Tây, về những nơi mà binh đoàn Tây Tiến đã đi qua trong các cuộc hành quân đầy gian khổ. Hai câu thơ đầu tiên thể hiện cảm xúc bao trùm của cả đoạn thơ. Đó là nỗi nhớ nhung của tác giả về dòng sông Mã, về binh đoàn Tây Tiến, về núi rừng Tây Bắc. “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi” Một tiếng gọi “Tây Tiến ơi!” nghe sao mà thân thương đến thế. Nỗi nhớ phải cồn cào, da diết đến đâu thì tác giả mới gọi một tiếng ấy, gọi người bạn cũ, gọi người thương cũ đã từng trải qua bao gian lao, bao vất vả. Sông Mã là con sông chảy dọc biên giới Việt Lào, qua các tỉnh Sầm Nưa, Điện Biên, Sơn La… Sông Mã như một thành viên của đoàn binh Tây Tiến, là một chứng nhân lịch sử, nhìn thấy hết mọi gian khổ, hi sinh và cả mọi chiến công của người lính. Ngoài dòng sông, kí ức về một thời đã xa của nhà thơ còn là ký ức về rừng núi miền viễn Tây “Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”. Mảnh đất yêu thương của từng người lính Tây Tiến – mảnh đất Tây Bắc, nơi họ đã sống và chiến đấu, giờ đây trở thành kỉ niệm thật đẹp trong tâm trí. Rừng núi xứ Tây Bắc như Chế Lan Viên nói là “Xứ thiêng rừng núi anh đã từng/ Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất” Tiếng hát con tàu. Vần “ơi” được điệp lại ba lần diễn tả nỗi nhớ mênh mang, da diết, vang vọng của nhà thơ. Ta biết tới nỗi nhớ chơi vơi trong ca dao “Ra về nhớ bạn chơi vơi” hay trong thơ Xuân Diệu “Tương tư nâng lòng lên chơi vơi” Nhị Hồ. Nhưng khác với nỗi nhớ về tình riêng, nỗi “nhớ chơi vơi” trong thơ Quang Dũng là dành cho Tây Tiến, dành cho những người đồng đội. Từng địa danh gắn liền trong chặng đường hành quân của đoàn binh Tây Tiến lần lượt hiện ra trong các câu thơ một cách chân thực Sài Khao, Mường Lát, Mai Châu, Châu Mộc. Mỗi nơi xa xôi, hoang sơ ấy hiện về trong kí ức của nhà thơ với bao thương nhớ da diết, khôn nguôi. Đó có chăng là “Những tên làng, tên núi, tên sông/Những cái tên đọc lên nghe muốn khóc”? Tác giả nhớ về những cuộc hành quân gian khổ của binh đoàn Tây Tiến qua miền Tây hoang sơ, dữ dội. Trước hết là đoạn đường qua Sài Khao sương mờ lối và cảnh Mường Lát thơ mộng “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi” Hiện thực chiến đấu khắc nghiệt được miêu tả hết sức chân thực sương che khuất lối, làm mờ đường đi, khiến đoàn quân mệt mỏi, rệu rã vì chặng đường gian khổ trùng điệp. Từ “mỏi” khiến cho âm điệu câu thơ chùng xuống. Thế nhưng, đối lập với vẻ khắc nghiệt còn là vẻ thơ mộng, trữ tình của núi rừng Tây Bắc “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”. Chiến đấu trong hoàn cảnh gian khổ nhưng người lính không hề đánh mất đi tâm hồn lãng mạn, hào hoa, lạc quan, yêu đời của bản thân mình. Hình ảnh “hoa về trong đêm hơi” là sự cảm nhận tinh tế của họ trước vẻ đẹp của thiên nhiên miền Tây. Những thanh bằng kết hợp với các từ ngữ “hoa về” thay vì hoa nở, đêm hơi thay vì đêm sương đã gợi nét nhẹ nhàng, êm ả bên cạnh cái dữ tợn của thiên nhiên. Chặng đường hành quân qua các tỉnh miền Tây có bao nhiêu đèo dốc trùng điệp nối nhau, có bao nhiêu hiểm nguy đều được gợi ra rõ ràng trong ba câu thơ “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống” Nghệ thuật điệp từ “dốc” kết hợp với các từ láy tượng hình “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” diễn tả một không gian chỉ gồm những dốc núi hiểm trở có lúc khúc khuỷu, gập ghềnh, lúc thì sâu thăm thẳm. Người lính Tây Tiến cứ đi, đi mãi, chưa qua hết dốc này đã đến dốc khác. Câu thơ tiếp theo tô đậm thêm vẻ hùng vĩ của thiên nhiên đất trời miền Tây, tô đậm độ cao của những vách núi nơi đây. Hình ảnh “heo hút cồn mây” khiến chúng ta hình dung đến những ngọn núi cao chót vót, heo hút vắng người, quanh năm phủ kín mây mờ. Cách nói nhân hóa “súng ngửi trời” là cách nói hóm hỉnh của người lính. Dường như dốc cao đến độ, đầu súng trên vai người chiến sĩ có thể chạm đến tận trời xanh. Câu thơ đã cho thấy phong thái ngang tàn, ngạo nghễ của người lính Tây Tiến. Về tư thế làm chủ này, trong bài “Lên Tây Bắc”, Tố Hữu cũng từng nhắc đến, rằng “Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều/ Bóng dài lên đỉnh dốc cheo leo/ Núi không đè nổi vai vươn tới”. Nhà thơ Quang Dũng sử dụng phép điệp “ngàn thước” cùng nghệ thuật tương phản, một bên “cao” một bên “xuống” nhằm diễn tả khung cảnh một bên núi cao chót vót, một bên lại thăm thẳm. Nhịp điệu 4/3 làm câu thơ như bị bẻ đôi, lại một lần nữa nhấn mạnh sự hiểm trở của đèo dốc núi rừng Tây Bắc. Khung cảnh đèo tiếp đèo, dốc tiếp dốc, cao chót vót, sâu thăm thẳm như thế này cũng được nói qua trong “Chinh phụ ngâm” Đặng Trần Côn “Hình khe thế núi gần xa/ Đứt rồi lại nối, thấp đà lại cao”. Đoạn thơ sử dụng nhiều thanh trắc nhằm khắc họa rõ nét chặng đường hành quân về miền tây Bắc của đoàn binh Tây Tiến đầy những vất vả, gian lao, hiểm trở. Nói lên cái khó khăn hiểm trở bao nhiêu thì càng nhấn mạnh ý chí kiên cường của những người lính trẻ bấy nhiêu. Thông qua cái khắc nghiệt của núi rừng miền Tây, ta nhìn thấy được cả bao nhiêu vất vả của người lính Tây Tiến. Sau chặng đường đầy vất vả, người lính cùng đồng đội như đang dừng lại nghỉ ngơi bên triền dốc, họ nhìn xuống lung thũng quan sát những bản làng nơi Pha Luông, những mái nhà nho nhỏ ẩn hiện trong làn mưa “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” Đối lập với đoạn thơ trên chiếm chủ yếu là các từ mang thanh trắc, câu thơ này lại chứa các từ chỉ mang thanh bằng. Việc sử dụng thanh bằng đã làm không gian yên ả được mở ra, một sự thanh bình, một nét thanh thản được len lỏi vào trong tâm hồn người lính trẻ. Có thể nói, nhà thơ Quang Dũng đã rất tài tình khi kết hợp sử dụng các thanh điệu vừa để diễn tả chặng đường khúc khuỷu, gập ghềnh và nét êm ả, nhẹ nhàng; bên cạnh đó còn tạo nên nhạc tính cho bài thơ. Bàn về điều này, Xuân Diệu từng nhận xét “Đọc bài thơ Tây Tiến như ngậm nhạc trong miệng”. Trong hồi ức về khung cảnh miền Tây của nhà thơ còn có hồi ức về những người bạn, người đồng đội cùng đồng cam cộng khổ với ông trong suốt quãng thời gian công tác tại Trung đoàn 52 “Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời” Tây Tiến – Phân tích 14 câu thơ đầu bài thơ Tây Tiến – Quang Dũng – bài văn hay, nghị luận xã hội bài tây tiến Xem thêm các bài NLVH hay trên Văn học trẻ Sự trần thuật từ nhiều điểm nhìn là bằng chứng quan trọng về đổi mới quan niệm văn xuôi Phân tích tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài Quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu về người nghệ sĩ và cuộc đời Phân tích vẻ đẹp con người trong văn Nguyễn Tuân sau Cách mạng qua đoạn trích “Cưỡi lên thác sông Đà phải cưỡi đến cùng … Họ nghĩ thế, lúc ngưng chèo.” Phân tích hình tượng con sông Đà hung bạo Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây Tiến Phân tích một số đoạn thơ tiêu biểu trong bài Tây Tiến – Quang Dũng Cách gọi “anh bạn” thân thương là cách gọi mà tác giả dành cho người đồng đội đã ngã xuống trong chặng đường hành quân. Một hiện thực khốc liệt hiện lên, đó là sự hi sinh của người lính Tây Tiến. Họ “gục lên súng mũ”, họ “bỏ quên đời”, về với đất mẹ, về nơi xa xăm. Cách nói giảm nói tránh của nhà thơ làm cho sự mất mát của người lính trở nên nhẹ nhàng hơn, đỡ đau xót hơn. Ờ đây Quang Dũng miêu tả cái chết của đồng đội như một sự xả thân cho lý tường. Người lính chết mà vẫn cầm chắc tay súng, chết trong tư thê lên đường, tư thế hành quân. Đây là hình ảnh vừa bi vừa hùng làm tỏa sáng vẻ đẹp lí tưởng của người lính. Gian khổ đâu chỉ là núi đèo cao chót vót, đâu chỉ là cái chết rình rập mà còn là sự nguy hiểm, dữ dội từ nơi rừng thiêng nước độc. Chặng đường hành quân càng thêm khó khăn khi người lính phải hành quân qua những nơi hoang vu đầy thú dữ, phải vượt qua từng cơn giận giữ của các con thác “Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người” Tây Bắc dữ dội ngoài mở ra theo chiều rộng không gian bằng cách địa danh Pha Luông, Sầm Nưa, Mường Hịch,… mà còn mở ra theo chiều rộng thời gian với hai cụm từ “chiều chiều”, “đêm đêm”. Có chăng cả ngày và đêm ở mảnh đất này chỉ có cọp dữ và thác thiêng ngự trị. Cách nhân hóa “thác gầm thét”, “cọp trêu người” nhấn mạnh cái hoang vu, rùng rợn và cái uy lực của thiên nhiên. Người lính Tây Tiến phải đối mặt với tất cả những điều ấy cơn thịnh nộ của các con thác và chúa tể của rừng xanh – loài cọp hung dữ. Chặng đường qua những địa danh với người đọc thuở ấy còn đầy bí hiểm, hoang sơ có biết bao hiểm nguy luôn chực chờ người lính. Thậm chí, những địa danh ấy còn khiến nhà thơ Vũ Quần Phương cho rằng hai chữ “Mường Hịch” nghe như bước chân cọp rậm rịch rình người trong đêm tối. Sau bao ngày trèo đèo, vượt núi, băng rừng, binh đoàn Tây Tiến dừng lại nơi bản làng Mai Châu ngày mùa, đón nhận tình yêu, lòng nhiệt thành từ đồng bào nơi đây dành cho họ “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” Các anh đã được đồng bào, đặc biệt là các cô gái miền sơn cước xinh đẹp như những bông hoa rừng đón tiếp niềm nở bằng những bữa cơm nếp xôi mà khói hương từ đấy cứ thơm ngát mỗi bước quân hành. Hương thơm ấy quyến luyến còn đọng lại mãi như nhà thơ Quang Huy đã viết “Buổi tiễn anh đi em hơ tầu chuối ngự /Gói xôi rền thơm mãi giữa hàng quân” Màu kỷ niệm. Và trong “Tiếng hát con tàu”, nhà thơ Chế Lan Viên cũng nói về hương thơm của vắt xôi “Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng…Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương”. Hình ảnh “cơm lên khói”, “mùa em thơm nếp xôi” là những hình ảnh mà tác giả nhớ da diết về Tây Bắc, về tình quân dân ấm nóng giữa Tây Tiến và “em” cùng các đồng bào dân tộc nơi bản làng Mai Châu. Người lính Tây Tiến có đâu quên những khung cảnh hạnh phúc xóm làng trong ngày mùa, có đâu quên những tấm lòng thơm thảo nơi đất lạ. Mười bốn dòng thơ mở đầu chủ yếu khắc tạc bức tranh thiên nhiên vô cùng hoang sơ, hùng vĩ trong nỗi nhớ của Quang Dũng. Từ thiên nhiên ấy, nhà thơ làm nổi bật hình ảnh những người lính Tây Tiến với tầm vóc lớn lao, với ý chí kiên cường, với tâm hồn phơi phới niềm tin, niềm lạc quan đã tạo nên sức mạnh đạp bằng mọi gian khổ hy sinh để đi tới. Bút pháp chủ đạo là lãng mạn kết hợp với bút pháp hiện thực đã đưa độc giả đến với những địa danh xa xôi của miền viễn Tây, hình dung về cuộc sống chiến đấu gian khổ của trung đoàn Tây Tiến. Ngôn ngữ thơ giàu tính hình tượng và nghệ thuật tương phản, đối lập đã làm nên bức tranh núi rừng miền Tây giàu đường nét, màu sắc. Cuối cùng, nghệ thuật hài thanh đã góp phần tính nhạc cho đoạn thơ. Nhà giáo Lương Duy Cán đã rất say sưa ca ngợi Tây Tiến “ có những ngày tháng không thể quên, cái gian khổ ác liệt không thể quên, cả cái hào hùng lãng mạn không thể quên. May mắn thay, giữa những ngày tháng không thể quên ấy, lại có những bài thơ không thể quên, như Tây Tiến của Quang Dũng”. Dẫu trải qua bao nhiêu cuộc “bãi bể hóa nương dâu”, “Tây Tiến” đã đang và sẽ mãi sống trong lòng người đọc với hình ảnh người lính lãng mạn, hào hoa, phong nhã nhưng không hề bi lụy. Tác giả bài viết Châu Nguyễn Ái My – CTV Văn học trẻ Bài viết Phân tích 14 câu thơ đầu bài thơ Tây Tiến độc quyền trên Văn học trẻ vừa giúp cho các bạn thấy được nét đẹp thơ ca và tình cảm tác giả dành cho những người lính Tây Tiến dù gặp nhiều gian khổ nhưng vẫn hào hoa phong nhã, dù bi tráng nhưng vẫn lãng mạn. Ủng hộ Văn học trẻ bằng cách đọc nhiều bài viết trên page và học tập thật tốt nhé.

nghị luận văn học về tây tiến